"TA NHỚ XỨ CÙA MÂY TRẮNG LẮM…”
Lê Đức Dục
Không hiểu sao khi đọc câu thơ "Ta nhớ xứ Đoài mây trắng lắm” trong bài thơ "Đôi mắt người Sơn Tây” của Quang Dũng tôi hay liên tưởng đến xứ Cùa của Quảng Trị. Xứ Đoài đất bắc nằm ở phía Tây, xứ Cùa nơi đây cũng nằm ở phía Tây, xứ Đoài đất bắc có đất đá ong khô óng sắc nâu đỏ, xứ Cùa của Quảng Trị cũng óng đỏ màu đất bazan. Và xứ Cùa, "kinh đô kháng chiến” gần 130 năm trước của vua Hàm Nghi, là căn cứ chiến khu của một thời kháng Pháp, là một miền cây trái ngọt lành giữa cằn khô của đất Quảng Trị vốn chỉ nổi tiếng với gió Lào cát trắng.
Bây giờ khách du lịch xuyên Á dập dìu trên quốc lộ 9, qua cửa khẩu Lao Bảo rồi sang Lào ngược lên Vientian hay Luang Phrabang hay qua cầu Hữu Nghị 2 ở biên giới Thái Lào mà xuyên lên đông bắc Thái Lan, qua Myanmar…ít người biết rằng, khi từ Đông Hà, xe chạy đến Km 14 của quốc lộ 9, nhìn theo con đường phía tay trái uốn lượn như dãi lụa mềm vắt quá những sườn đồi thoai thoải chỉ 7 cây số là bạn có thể đặt chân tới vùng Cùa.
Cùa là tên gọi từ xưa, nghe âm vang một tên gọi dân dã vừa hoang vu, còn tên trên bản đồ hành chính, đây là địa bàn hai xã Cam Chính và Cam Nghĩa thuộc huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Từ ngã ba quốc lộ 9 vào Cùa, ngày xưa là con đường đất đỏ giữa lúp xúp sim mua, tôi nhớ mãi tấm hình của nhà báo Lê Bá Dương chụp quảng đường cong eo thắt hình chữ S này, trên chữ S eo thắt ấy một người mẹ xứ Cùa đầu đội chiếc nón lá của bà mẹ Việt đang trĩu nặng gánh gồng, một khúc đường thôi mà chất chứa trong nó trọn vẹn câu chuyện tảo tần xứ sở.
Thật lạ kỳ khi giữa cằn cỗi gió nắng, đất xứ Cùa lại mỡ màu trứ danh với những vườn cây trái sum suê ngọt lành. Về Cùa đi giữa con đường rợp bóng cây, có thể thấy những cây mít chi chít lúc lĩu trái. Mít, ngày xưa như một ấn chỉ của xứ Cùa, những cây mít cổ thụ vài trăm năm tuổi ấy cũng góp sức cho một "đặc sản kiến trúc” của xứ Huế: nhà rường! Những ngôi nhà rường còn lưu dấu đến hôm nay ở một số phủ đệ xứ Huế hay nhứng làng cổ nổi tiếng như Phước Tích, Mỹ Xuyên…hầu như đều được cất từ thứ gỗ mít trồng trên đất bazan xứ Cùa. Màu gỗ mít ấy , làm tôn lên vẻ đẹp đặc trưng của kiến trúc nhà rường, vừa sang trọng cổ kính lẫn chất "quý tộc” của phủ đệ.
Hồi đầu thế kỷ, nhiều quan Tây thực dân đã chọn vùng đất này để xây dựng đồn điền trồng cà phê, hồ tiêu..Trên con đường từ ngã ba quốc lộ 9 vào Cùa, sau mấy quảng đèo, khách sẽ bất ngờ với một bình nguyên đất đỏ rộng lớn. Và bên tay trái là những ngôi nhà lầu đã hoang tàn vì đạn bom của thời chiến tranh 1972 khốc liệt. Những căn nhà lầu xây từ đầu thế kỷ 20 ấy cũng của chính những nhân vật đã từng được nhắc đến trong lịch sử. Một trong hai ngôi nhà lầu chơ vơ giữa miền đất bazan này là của bà Cả Lễ, chị cả của ông Ngô Đình Diệm, đây cũng là một đồn điền xưa của gia đình bà cả Lễ.
Vào tới trung tâm của vùng Cùa sẽ thấy dưới bóng tán mít vây bọc những vuông vườn với dâu da, cam, bưởi , ổi..Dưới nữa là những khóm thơm (dứa) trái mập căng, ngọt lừ. Còn gì sung sướng hơn khi một ban trưa nóng rát, ngã lưng dưới bóng rợp của vườn xưa và thưởng thức những cây trái ngọt lành chắt chiu từ vị đất đỏ xứ Cùa.
Nhưng Cùa không chỉ có những vườn cây hoa trái ngọt lành. Xứ Cùa còn có một đặc sản, tuy số lượng không nhiều nhưng chất lượng được xếp vào hàng bậc nhất Việt Nam là hồ tiêu. Hồ tiêu vùng Cùa cay và thơm không chỉ vì được trồng trên đất đỏ, có một thứ phân bón làm cho chất lượng hồ tiêu đạt đẳng cấp mà những vùng trồng hồ tiêu khác không có được, đấy là nguồn phân dơi từ những lèn đá vùng Tân Lâm, cạnh vùng Cùa. Những hang động phân dơi lưu cữu ngàn năm qua trở thành nguồn phân bón khiến cho chất lượng tiêu của được xếp vào hàng "thượng thừa” về độ nồng cay và thơm. Chè xanh xứ Cùa cũng là là một đặc sản xứ này, nhưng mấy năm gần đây, có một loài cây chè hoang mới thực sự lên ngôi ở đây, là chè "vằng”, vằng là một loại cây dây leo, trong nam dược gọi là "hoàng đằng”, mọc nhiều ở vùng này. Xưa người dân vẫn lấy về nấu nước uống, công dụng mát gan, tiêu mỡ, tốt cho hệ tiêu hóa, gạn thận... Rồi khi đã chán chê với những thức uống quen thuộc, thứ lá vằng này bổng thành "đặc sản”, và không thể bán nguyên cả cây lá vằng, người dân nơi đây lại khéo léo mở những lò nấu "cao lá vằng”, vài tạ lá thân cành rễ..được sắc cô đặc lại thành tấm, thành bánh, gọi là "cao”. Thay vì nấu nướng phiền phức, chỉ cần cắt một mảnh nhỏ cao này, cho vào một ấm nước sôi vậy là có ngay một ấm chè lá vằng, vừa thuốc thang cho cơ thể, vừa thưởng thức cái vị đắng nhân nhẫn của nó, khi trôi qua cổ họng lại có dư vị ngọt thanh của cây rừng. Cao lá vằng hay "chè vằng” của xứ Cùa giờ đây lại nức tiếng, mỗi năm hàng tấn thức uống cao lá vằng này tỏa đi khắp trong nam ngoài bắc, người quê tah xứ , bôn ba góc bể chân trời, nếu có một ấm chè vằng , hẳn sẽ nghe cả một miền kí ức đồi bãi hoang sơ của miền quê gió cát vọng về.
Và đến Cùa không thể không đến Tân Sở, khu thành xưa vua Hàm Nghi dựng chiếu Cần Vương, qua bao dâu bể đã hoang tàn, thành quách xưa chỉ còn dấu tích những lũy tre bảo bọc vây quanh, những viên gạch vồ xây thành cũng đã hoang tàn vì bom đạn, vài nhà dân ở quanh đó nhặt về để ở góc sân như để nhớ về một quá vãng oai hùng của xứ sở. Tôi cúi xuống bên những viên gạch vồ với kích thước không lẫn vào đâu được, đã xanh sắc rêu im lặng trong góc vườn . Một kinh đô kháng chiến được nhắc nhiều trong sử sách mà nay chỉ còn lại vài viên gạch lẻ loi như thế này thôi ư? Một chương bi tráng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc lẻ nào không còn ai biết? Nhìn ra mênh mông bình nguyên , chập chùng đồi núi vây bọc bốn bề, chốn hiểm địa chở che cho Tổ quốc buổi sơn hà nguy biến. Ngước lên cao xanh, thấy như đắc tội muôn vàn với tiền nhân…
LĐD
Xem Thêm, xin mời vào trang Web:thienphuoc.com