NHỊP HIỀN LƯƠNG 2019

DONGHUONGQUANGTRI.COM »
27/09/2019 | 09:46

NHỊP HIỀN LƯƠNG-2019

THAY LỜI CHÚC TẾT----Đào Xuân Thống *

Tiển đưa năm cũ, đón chào năm mới, là nét đặc trưng văn hóa của dân tộc ta… được lưu truyền từ bao đời.

Nay, sau một năm lao động, học tập buôn ba xuôi ngược mưu cầu cuộc sống, xây dựng tổ ấm gia đình, Bà con Quảng Trị sống xa quê luôn đau đáu hướng về quê nhà…ở đó là Tổ Tiên, Ông Bà.. là khúc ruột mẹ cắt ra để rốn lại cho ta khôn lớn làm người.

- Thưa Bà Con, cuộc họp mặt truyền thống Đồng Hương Quảng Trị (ĐHQT) là nơi gặp gỡ, giao lưu để Bà con được thăm hỏi, chúc tụng…chia sẻ những niềm vui, nổi nhớ…những ánh mắt, nụ cười, tràn ngập tình thương ấm áp lòng người Quảng Trị quê mình

-Bước sang năm mới, thay mặt Ban liên lạc Đồng hương xin cầu chúc Bà Con, Đại gia đình Quảng Trị tại Thành phố Hồ Chí Minh thật dồi dào sức khỏe, tràn ngập hạnh phúc, chúc Các Vị cao tuổi, Các Bậc Phụ huynh…sống mãi, sống khỏe, vui vầy bên con cháu, thật sự là tấm gương người Quảng Trị sống tại Thành phố mang tên Bác.

- Chúc các cháu sinh viên, học sinh là con em Quảng Trị phát huy truyền thống chăm ngoan, học giỏi và hiếu thảo…Đây là nguồn hạnh phúc, là sự báo đáp lớn nhất đối với các bậc sinh thành.- Thưa Bà Con, Năm 2018 ĐHQT đã có những việc làm đầy ý nghĩa: Ngoài những hoạt động thăm hỏi Bà con ốm đau, viếng, tiển đưa những Bà con từ trần về nơi yên nghỉ cuối cùng, đã tổ chức thành công cuộc họp mặt đầu xuân 2018, để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng Bà con. Đặc biệt Bà con tham gia ngày càng đông, Các thế hệ trẻ con cháu Nội, Ngoại tham gia ngày càng nhiều. Năm 2018 chúng ta tiếp tục hoạt động hướng về quê nhà: Đã phối hợp CLB Nghĩa Tình Quảng Trị vận động "Quỹ tiếp sức đến trường” về quê tặng cho 200 tân sinh viên vượt khó học giỏi, mỗi suất 10 triệu đồng.

- CLB Sinh viên đã tổ chức thành công trại hè 2018 với hàng trăm sinh viên, cựu sinh viên tham gia, đặc biệt tổ chức giải bóng đá ĐHQT với 24 đội thi tài được chính quyền địa phương đồng tình cổ vũ, với hàng ngàn lượt cổ động viên tham gia. Năm 2018 đã vận động được một số doanh nghiệp, các nhà hảo tâm tài trợ 850 triệu đồng để xây dựng 1 trường học trị giá 350 triệu đồng, trao tặng 250 suất quà với mỗi suất là 500,000đ cho người nghèo, đối tượng chính sách. Xây dựng công viên cây xanh và đồ chơi cho bệnh nhân khoa nhi bệnh viện Huyện Hải Lăng trị giá 50 triệu đồng. Đặc biệt tổ chức thành công đêm ca nhạc gồm nhóm Ca sĩ là con em Quảng Trị tại TPHCM, phối hợp tham gia quyên góp giúp bệnh nhân nghèo tại khoa Ung Bướu Bệnh viện tỉnh Quảng Trị với tổng số tiền 680 triệu đồng. Tổ chức tặng quà cho 97 bệnh nhân ung thư nặng tại Khoa Ung Bướu mỗi người 1 triệu đồng, có trường hợp đặc biệt từ 5 – 10 triệu đồng.

- Đó là tấm lòng nghĩa cử của người Quảng Trị sống xa quê đối với Bà con quê nhà, góp phần nhỏ xoa dịu nổi đau đối với những bệnh nhân nghèo ….

Bước sang xuân Kỷ Hợi 2019, chúng ta kêu gọi Bà con tiếp tục chung tay làm tốt hơn năm 2018. Thật sự xứng đáng tổ chức ĐHQT tại Thành phố mang tên Bác. Xứng đáng với sự tin yêu của Bà con Quảng Trị tại quê nhà. Đặc biệt đáp lại sự quan tâm của lãnh đạo Tỉnh đối với ĐHQT tại TPHCM.

Xin kính chúc!

ĐXT-Trưởng Ban Liên Lạc Đồng Hương Quảng Trị


NĂM ĐINH HỢI, NÓI CHUYỆN HEO

Năm 2019 là năm Đinh Hợi hay là năm con heo. Con heo đứng ở vị trí cuối cùng của mười hai con giáp. Thường thì những con gì đứng ở vị trì đầu và vị trị cuối đều quan trọng và rất được người ta chú ý. Phần lớn, họ là những thủ lĩnh, một đi đầu và một khóa đuôi, quán xuyến đội ngũ.

Những người sinh vào năm con Heo đều là những người có tính tình hẳng thắn, thật thà, lãng mạn, ngây thơ và hào phóng. Tài vận của họ thường được liệt vào loại bậc nhất trong mười hai con giáp.

Những người tuổi con Heo, thường rất tự tin trong mọi công việc, có phương pháp xử lý ổn định, dồn mọi quan tâm vào cho công việc đôi khi quên cả những gì đang xẩy ra xung quanh. Họ thường có ý chí cạnh tranh mãnh liệt và cầu thị. Do đó dù làm bất cứ công việc gì họ cũng toàn tâm, toàn ý và cuối cùng cũng gặt hái thành công. Họ là những người yêu quý gia đình, tương đối câu nệ trong chuyện tình cảm. Họ không có tính cách như loại đại thúy gia con nhà giàu hay đứng núi này trông núi nọ. Vận số thời trẻ của người cầm tinh con Heo thường rất tốt, tuy nhiên, nếu gặp thất bại họ dễ bị suy sụp, vì thế những người cầm tinh con Heo cần chú ý vấn đề này, để khi gặp sự cố thì gắng tìm mọi cách vượt qua và bước tiếp.

Xét về phương diện nghề nghiệp, những người cầm tin con Heo thích hợp với các ngành nghề kinh tế,kiến trúc, dịch vụ…chứ không hợp lắm với những ngành liên quan đến chính trị, văn hóa.

Đặc biệt những phụ nữ cấm tinh con heo, thường rất tài hoa, thông minh hoạt bát, hay giúp đỡ người khác, cho nên thường được mọi người quý trọng và yêu mến. Thường thị họ đều có cuộc sống hạnh phúc.

Nói gì thì nói, con người ta sinh ra là để làm việc và cống hiến. Bất cứ ai, tuổi con gì, nếu biết tu nhân, tích đức, biết học hỏi, rèn luyện, phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thì nhất định gặt hái thành công, mang về nhiều trái thơm, quả ngọt.

Năm con Heo, năm 2019, xin chúc cho mọi người một năm sức khỏe và vạn sự như ý.

TẦM ẢNH HƯỞNG CỦA HEO VÀ CÁC LOẠI HEO

Con heo không những là con vật thân thiện và rất quan trông với con người mà còn được coi trọng trong lĩnh vực tôn giáo. Thời Hy Lạp cổ đại, heo là con vật để hiến tế cho nữ thần Demeter và nó là con vật yêu thích của nữ thần này. Phần mở đầu của các lễ hiến tế Eleusis được bắt đầu bằng việc hiến tế con heo.

Heo còn là một trong số 12 con vật tượng trưng cho chu kỳ 12 năm của Địa Chi trong nhiều tính toán liên quan tới Can-Chi của người Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên v.v. Heo gắn liền với địa chi Hợi.

Những người tin tưởng vào chiêm tinh học Trung Hoa luôn gắn con vật với đặc điểm, đặc tính cá nhân, như phần trên đã nói.

Người theo Hồi giáo bị cấm không được ăn thịt heo, theo kinh Cu Ran.

Người Do Thái cũng bị cấm ăn thịt heo, theo luật Kashrut.

Trong Phúc âm, chúa Giê-su đã kể một câu chuyện ngụ ngôn về đứa con trai hoang đàng. Khi ăn chơi hết tiền, cậu ta phải xin làm người nuôi heo thuê, mong ước là có thể ăn thức ăn của heo nhưng không ai cho. Cũng trong Phúc âm, chúa Giê-su thực hiện một phép màu bằng cách làm cho con quỷ ám ảnh con người đi vào một bầy heo và sau đó làm nó phải chạy trốn tới một vách đá và bị chết đuối.

Con Heo (trong Nam) hay con Lợn(ngoài Bắc),là một gia súc được thuần hóa từ loài lợn rừng,được chăn nuôi để cung cấp thịt hay bán lấy tiền trang trải cho gia đình. Có hai loai heo đó là heo rừng và heo nhà. Hầu hết heo nhà có lớp lông mỏng trên bề mặt da,còn lơn rừng có da dày,lông có ba chân trên một lỗ chân lông. Heo nhà thường được cho rằng là một phân loài từ tổ tiên hoang dã của chúng là heo rừng.

Hiện chưa xác minh được Heo ở các địa phương của Việt Nam thuộc một giống hay thuộc nhiều giống.

Các giống heo truyền thống Việt Nam rất nhiều mỡ và sinh trưởng chậm. Do vậy, chúng không phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế. Hiện nay, người dân Việt Nam có xu hướng nuôi Heo lai nhập nội, dẫn đến nguy cơ mất dần đi những giống Heo bản địa. Một số giống Heo đã được đưa vào danh mục nguồn gen vật nuôi quý hiếm cần bảo tồncủa Việt Nam, gồm:Heo ỉ, Heo ba Xuyên, Heo cỏ, Heo Mán,Heo Táp Ná, HeoVân Pa.

Sau đây là nhũng giống Heo chủ yếu:

-HeoMóng Cái, có xuất xứ từ thành phố Móng Cái,Quảng Ninh, đã có mặt ở nhiều tỉnh phía Bắc và miền Trung, Tây Nguyên. Heo Móng Cái gồm 2 dòng: dòng xương to và dòng xương nhỏ.Heo Móng Cái có đầu đen, giữa trán có đốm trắng hình tam giác hoặc hình thoi, mõm trắng. Lưng, mông, cổ màu đen hình yên ngựa, các phần còn lại trắng. Khả năng sinh sản của Heo Móng Cái khá cao, từ 10-16 con/lứa, khối lượng heo con sơ sinh 0.5-0.7kg/con, tỷ lệ nạc 32-35%.

-Heo Ỉ, là giống heo địa phương ở miền Bắc Việt Nam, ngày nay ít được nuôi do hiệu quả kinh tế không cao và đang có nguy cơ tuyệt chủng. Giống heo ỉ mỡ (hay còn gọi là heo ỉ nhăn) có thịt ít, mỡ nhiều (tỉ lệ nạc chỉ đạt 36% trong khi mỡ chiếm đến 54%). Nuôi lợn ỉ cả năm cũng chỉ đạt 40–50kg, trong khi giống heo thịt nuôi sáu tháng đã đạt 70 – 80kg. Heo ỉ mỡ hiện chỉ còn được nuôi tại một số hộ dân nghèo ở Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Trong các năm từ 2001-2003, tại khu vực này có 50 heo ỉ cái và bốn heo đực giống được bảo tồn thì đến năm 2007 chỉ còn 30 heo cái và bốn heo đực

-Heo Mọi,là một giống heo nhỏ được lai giữa heo nhà và heo rừng xuất phát từ miền Trung Việt Nam được nuôi thả, thường chỉ nặng trên dưới 10kg, lưng cong, bụng ỏng rất dễ thương, thịt rất săn chắc, rất thông minh và thích sạch sẽ, có thể dùng làm vật nuôi, thú cảnh hoặc làm nguyên liệu cho nhiều món ăn ngon.

-Heo Đê, là một loại heo của người Ê Đê, người Mnông nuôi. Giống lheo nhà này phù hợp một số đặc điểm và địa hình buôn làng ở các dân tộc thiểu số ởTây Nguyên. Họ có nhà sàn cách cao mặt đất để nước không tràn vào nhà khi lũ tới hoặc tránh thú dữ, đồng thời sàn dưới còn làm chuồng cho các vật nuôi như giống heo này. Ngày nay, buôn làng không làm như vậy nữa mà làm chuồng nhốt riêng xa nhà một khoảng cho hợp vệ sinh, tránh dịch bệnh xảy ra

-Heo Cỏ, là một giống heo nuôi bản địa của Việt Nam. Chúng khối lượng nhỏ, gầy, èo uột, chậm lớn và là đặc sản của một số vùng đất nghèo ở miền Trung mà chủ yếu là ở các tỉnh khu Bốn cũ, heo được nuôi tự phát và thoái hóa do phối giống cận huyết. Hiện một vài nơi còn nuôi heo Cỏ để làm đặc sản.

-Heo đen Lũng Pù

Là giống heo bản địa ở Mèo Vạc, hiện được chăn nuôi tại 4 huyện trong tỉnh Hà Giang. Heo đen Lũng Pù có tầm vóc to lớn, nuôi 10 đến 12 tháng đạt trọng lượng 80 đến 90kg. Lông đen, dày và ngắn, da thô, tai nhỏ cúp, mõm dài trung bình. Trung bình có 10 vú và bình quân đẻ 1,5 đến 1,6 lứa/năm. Giống heo này có hai loại hình, một loại 4 chân trắng và có đốm trắng ở trán và mõm, một loại đen tuyền. Đây là giống lợn chiếm tỷ lệ cao nhất và có chất lượng tốt nhất so với các giống lợn địa phương khác của Hà Giang.

-Heo Vân Pa

Là giống heo địa phương lâu đời của đồng bào dân tộc Vân Kiều - Pa Cô thuộc 2 huyện miền núi Hướng Hoá và Đakrông thuộc tỉnh Quảng Trị. Trọng lượng heo Vân Pa trưởng thành chỉ đạt 30 – 35kg. Giống heo này có nhiều tập tính của động vật hoang dã như tính bầy đàn, có khả năng tự kiếm ăn cao, chịu được kham khổ, khả năng kháng bệnh tốt, thịt thơm ngon.

-Heo Khùa

Là giống heo bản địa ở miền núi Quảng Bình do người dân tộc Khùa nuôi tại các nông hộ theo phương thức thả rông tự kiếm ăn và không có chuồng trại.Về màu lông, heo Khùa có thể có màu lông đen toàn thân, có lông da đen với các điểm trắng ở 4 chân hoặc có lông da đen và loang trắng trên thân. Mõm heo Khùa nói chung dài và khỏe, lưng khá thẳng.

-Heo Mường Khương

Là một giống heo được nuôi nhiều ở vùng núi phía Bắc và gắn liền với đời sống người H’Mông, là giống heo địa phương có từ lâu đời, được nuôi ở nhiều vùng thuộc tỉnh Lào Cai, nhiều nhất là ở huyện Mường Khương. Đây là một trong ba giống heo quý ở các tỉnh phía Bắc, chúng cũng là một trong ba giống heo nội chủ yếu làm nền lai giống ở Miền Bắc Việt Nam. Thân hình loại heo này cao to, lưng thẳng, rất phàm ăn, chịu rét giỏi hơn các giống heo khác. Tuy nhiên, thịt chất lượng kém; heo đẻ ít con và nuôi con vụng về.

-Heo Mẹo

Heo Mẹo hay còn gọi là heo Mèo, là giống heo của người HMông, được nuôi tại các hộ gia đình thuộc một số xã miền núi trên địa bàn Nghệ An,Hà Tĩnh,Lào Cai,Yên Bái.Heo Mẹo được đồng bào dân tộc H’Mông nuôi thuần từ rất lâu đời ở vùng rẻo cao khí hậu mát mẻ quanh năm, thích hợp cho thả rông tự do. Qua hàng trăm năm sống ở vùng núi cao, heo Mẹo đã thích nghi và phát triển tốt trong điều kiện sinh thái, kinh tế và tập quán chăn nuôi của người H’Mông địa phương.

-Heo Táp Ná

Heo Táp Ná là một giống heo nội của Việt Nam, được hình thành từ lâu đời chủ yếu ở huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng, chúng nguồn gene vật nuôi bản địa quý. Người dân nuôi heo ở vùng núi huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng chỉ giao dịch mua bán heo tại chợ Táp Ná, do đó giống heo nội Việt Nam này dần dần được người dân đặt tên là giống heo Táp Ná. Ngoài nuôi phổ biến ở các bản làng hẻo lánh trên các vùng núi cao hiểm trở của huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng.

-Heo Yokkorkshre(Đại Bạch): Có nguồn gốc từ vùng Yorkshire nước Anh, hiện nay heo Yorkshire được nuôi ở hầu khắp các nước trên thế giới. Heo Yorkshire có khả năng thích nghi tốt hơn các giống lợn ngoại khác. Heo Yorkshire có lông trắng tuyền, tai đứng, trán rộng, ngực rộng, ngoại hình thể chất chắc chắn, nuôi con khéo, chịu được kham khổ, chất lượng thịt tốt, khả năng chống chịu stress cao. Con đực có khối lượng trưởng thành khoảng 300–400kg, con cái khoảng 230–300kg.. Ở Việt Nam heo Yokkorkshre (Đại Bạch) nhập vào từ năm 1964 từ Hoa Kỳ và được biết với tên thông dụng là Henry. Giống heo Yokkorkshre được nuôi khá phổ biến từ những năm 70 đến 80, sau đó nhập các dòng lợn Yorkshire từ các nước khác cũng có tầm vóc lớn.

Những giống nhập nội

-Heo Lanhdrace

Giống heo Landrace nuôi ở nhiều nước châu Âu, nhưng giống này nhập nội vào Việt Nam từ Đan Mạch. Giống lợn Landrace, mình thon nhọn, lông da trắng tuyền, mõm dài thẳng, hai tai to ngả về phía trước che cả mắt, mình lép, 4 chân hơi yếu, đẻ nhiều, tỷ lệ nạc cao.

-Heo Duroc

Giống Heo Duroc , xuất xứ từ Bắc Mỹ, thân hình vững chắc, lông có màu từ nâu nhạt đến nâu sẫm, bốn chân to khỏe, cao, đi lại vững vàng, tai to ngắn, gập về phía trước, mông vai nở, tỷ lệ nạc cao, có chất lượng thịt tốt.

-Heo Pietrain

Giống heo Pietrain,xuất xứ từ Bỉ, mang tên làng Pietrain thuộc vùng Wallon, Brabant, lông da màu trắng đen xen lẫn từng đám, tai thẳng đứng, đầu to vừa phải, mõm thẳng, 4 chân thẳng, mông rất nở, lưng rộng, đùi to, nhiều nạc nhất trong các giống. Tuy nhiên, giống lợn Pietrain có nhược điểm tim yếu, khả năng chịu đựng kém, nhạy cảm với stress. Lợn Pietrain thường sử dụng để lai với giống Duroc để tạo ra giống mới có tỷ lệ thịt mông và tỷ lệ nạc hợp lý, năng suất cao.

-Heo Berkshire

Hoe Berkshire được nhập vào Việt Nam năm 1959. Khả năng thích nghi của chúng khá tốt song khả năng sản xuất, khả năng lai tạo với các giống lợn nội kém hơn các giống lợn khác nên nó bị đào thải vào những năm 1970. Sau thập niên 70, giống lợn này không được lựa chọn ở nhiều nước và dần dần không sử dụng. Hiện nay, ở Anh đang nuôi dưới dạng bảo tồn. Giống lợn Berkshire nhập vào nuôi từ những năm 1920 đã tạo ra giống lợn Ba Xuyên ngày nay ở Nam Bộ.

-Heo Cornwall

Có nguồn gốc xuất xứ từ nước Anh tại các quận Cornwall Devon và Essex. Heo được nhập vào Việt Nam năm 1974, qua Hungary, nuôi thích nghi ở huyện Ba Vì, do không thích hợp về khí hậu nên được chuyển vào nông trường giống heo Triệu Hải năm 1976. Đến năm 1993, do chủ trương trắng hóa đàn heo tại các tỉnh Thừa Thiên Huế và Quảng Trị giống heo này được loại bỏ hoàn toàn ở khu vực Bình – Trị – Thiên.

-Giống heo lai

-Heo Ba Xuyên

Heo Ba Xuyên hay heo bông là giống heo đen đốm trắng xuất phát vùng Ba Xuyênnay thuộc tỉnh Sóc Trăng. Giống heo này được hình thành từ các giống heo địa phương lai với heo Hải Nam, lợn Craonnaise và heo Berkshire. Lợn Ba Xuyên có khối lượng trưởng thành đạt 120–150kg, đẻ bình quân 8-9 con/lứa, nuôi con khéo. Mỡ nhiều, tỷ lệ nạc chỉ đạt 39-40%. Lợn Ba Xuyên thường được dùng làm nái nền để lai với đực ngoại tạo con lai nuôi thịt thương phẩm.

-Heo Thuộc Nhiêu

Đây là con lai giữa lợn Bồ Xụ và lợn Yorkshireở vùng Thuộc Nhiêu, huyện Châu Thànhvà Cai Lậy,Tiền Giang. Heo Thuộc Nhiêu có lông màu trắng, có thể có vài đốm đen nhỏ. Giống heo này chịu đựng được nhiều điều kiện chăn nuôi kham khổ, có khả năng sử dụng tốt thức ăn, nghèo protein, nuôi con khéo, chống chịu bệnh tốt, phù hợp với chăn nuôi gia đình. Mỡ nhiều, tỷ lệ nạc đạt 40-42%. Hiện nay giống heo này chỉ còn ở vùng sâu, vùng xa, các vùng khác được cải tiến bằng cách lai pha máu với heo Yorkshire.

THỊT HEO

Thịt heo là món ăn ngon và bổ dưỡng, được người ta dung và ưa thích từ lâu.

Trong thịt heo, chứa nhiều vitamin thuộc nhóm B như thiamine, riboflavin, niacin, một số khoáng chất như calci, kali, và sắt ở dạng dễ hấp thụ. Trung bình, một miếng thịt thăn 60g cung cấp 185 calori, 8g mỡ, 92mg cholesterol, 0,7mg sắt... Thịt heo chứa có nhiều chất dinh dưỡng lại dễ tiêu hóa nên thường được khuyên dùng cho trẻ em, người cao tuổi, người mới ốm dậy, lao động nặng.

Một số món ăn - Bài thuốc từ thịt heo

Canh thịt heo, kỷ tử:Thịt nạc thăn 200g, kỷ tử 15g, đương quy 20g, đại táo10 quả, cho vào nấu thành canh, nêm nếm gia vị vừa ăn.

Khi dùng, vớt bỏ bã đương quy. Bài thuốc này có tác dụng bổ âm, bổ huyết, bổ can thận, dùng cho các trường hợp đau đầu hoa mắt chóng mặt, cơ thể suy nhược, huyết hư thiếu máu, người bị bệnh lâu ngày mỏi mệt, gầy yếu.

Nước thịt hầm:thịt heo 500g thái lát to, cho nước, đun to lửa, hớt bỏ váng bã, gạn lấy nước, thêm muối tiêu, gia vị, để nguội cho uống. Dùng cho bệnh nhân bị nhiệt bệnh sốt cao mất nước.

Canh chân giò

Canh chân giò:chân giò 2 cái, mộc thông 21g. Đem mộc thông nấu lấy nước, bỏ bã, nấu với chân giò, thêm gia vị thích hợp. Hoặc lấy trái đu đủ hường, nấu với chấn giò, cho sản phụ sau đẻ bị tắc sữa, ít sữa,ăn sẽ rất tốt .

Chân giò hầm lạc nhân:chân giò 2 cái, lạc nhân 50g, đại táo 10 quả, thêm gia vị hầm nhừ. Dùng cho các trường hợp thiếu máu, giảm bạch cầu và tiểu cầu.

Cháo thịt heo

Cháo thịt heo:thịt nạc 200g, cà rốt 1 củ, khoai tây 1 củ, 100g gạo ngon. Thịt nạc heo xay nhỏ, cà rốt, khoai tây thái hạt lựu. Cho thịt heo, khao tây, cà rốt vào xào thơm, nên thêm nước, cho gạo vào, nấu thành cháo nhuyễn. Món chào này bổ dưỡng, dễ tiêu hóa, có thể dùng cho trẻ em, sản phụ sau sinh, người mới ốm dậy… để phục hồi sức khỏe.

                                                                                                                  Sưu tầm

TIẾNG GIAO THỪA---Thơ Trung Hiếu

Đêm nay, đêm cuối cùng của năm

Doøng thôøi gian như lắng lại

Đợt gió cuối ngày thổi qua chậm rãi

Nửa muốn đi, nửa muốn quay về

Có điều chi mà im lặng bốn bề

Những ngôi sao chớp hoài không nói

Dường như đêm bồn chốn như muốn hỏi

Năm hết rồi ai nhắn nhủ gì không

Tất cả rạo rực, tất cả chờ mong

Giây phút giao thoa, đất trời linh nghiệm

Mẹ thắp nhang bên bàn thờ cầu nguyện

Mưa thuận gió hoà và may mắn cho năm

Kim đồng hồ vẫn vậy siêng năng

Tích tắc chạy về giây phút chót

Roài sung sướngchạm vào nhau thánh thót

Tiếng giao thừa-Năm mới đến rồi quê

                                                 TH

ĐÊM Ở QUÊ—Thơ Hiền Giang

Tôi về ngắm mảnh trăng quê

Đêm thiêm thiếp gió ngủ mê đầu nhà

Tiếng đêm rỉ rả gần xa

Nghe trong thổn thức thoảng qua tiếng lòng

Trời quê vẫn vậy thật trong

Ngàn sao lấp lánh chờ mong người về

Đêm ở quê, nghe tiếng quê

Hương đồng cỏ nội rủ rê giấc nồng

Gió Nồm lạc bước vào trong

Ru cho tôi ngủ mát không nề hà

Đêm quê, đêm của thật thà

Bình minh vừa ghé, tiếng gà lại vang.


TING GIAO THA---Thơ Trung Hiếu

Đêm nay, đêm cuối cùng của năm

Doøng thôøi gian như lắng lại

Đợt gió cuối ngày thổi qua chậm rãi

Nửa muốn đi, nửa muốn quay về

Có điều chi mà im lặng bốn bề

Những ngôi sao chớp hoài không nói

Dường như đêm bồn chốn như muốn hỏi

Năm hết rồi ai nhắn nhủ gì không

Tất cả rạo rực, tất cả chờ mong

Giây phút giao thoa, đất trời linh nghiệm

Mẹ thắp nhang bên bàn thờ cầu nguyện

Mưa thuận gió hoà và may mắn cho năm

Kim đồng hồ vẫn vậy siêng năng

Tích tắc chạy về giây phút chót

Roài sung sướngchạm vào nhau thánh thót

Tiếng giao thừa-Năm mới đến rồi quê

                                                      TH

MÙA VỀ--Thơ Hiền Giang

Tháng năm lúa chín rộ đồng

Cả thôn đi gặt gánh gồng rộn chân

Đi thật sớm, gặt thật nhanh

Tránh cơn nắng gắt vây quanh trưa hè

Trên vai gánh lúa lặc lè

Chân trần chạy vội ai dè cũng quen

Gió vờn vuốt mái tóc em

Nón nghiêng vành nón đan xen dịu dàng

Đêm quê giấc ngủ mơ màng

Bốn bề hạt thóc ánh vàng bay bay

Cả làng như tỉnh, như say

Ngon cơm gạo mới dịp may mùa về!

                                                      HG

ƯỚC VÒNG THỜI GIAN—Thơ Trung Hiếu

Một chiều đông rớt xuống

Chui vào đất ngủ yên

Rét quay về phía núi

Mưa dần dà rút êm

Một sáng xuân mọc lên

Ấm gieo đầy trước ngõ

Cây cựa mình, hoa nở

Mơn man ngọn gió lành

Em vẫn đi bên anh

Giữa sớm mai dịu ngọt

Phố bỗng xinh bất chợt

Râm ran trong tiếng cười

Đông đi, xuân đến rồi

Niềm vui quay trở lại

Vòng thời gian luân hồi

Ước đời tươi trẻ mãi

                                         TH

GẶP MAY---Thơ Nguyễn Hữu Thắng

Sáng nay ra ngõ gặp may

Người không quen biết vẫy tay chào mình

Trông nàng xinh đến là xinh

Hình như nàng muốn chụp hình với tôi

Nàng xin chữ ký, ôi thôi

Đã lâu tôi gác bút rồi nàng ơi

Thế rồi bẽn lẽn nàng cười

Cháu nhầm bác với một người cháu quen

Thế là tôi tẽn

tèn

ten.

                                    NHT

HIẾU GIANG NGÀY ẤY-----Thơ Nguyễn Hữu Thắng

Tôi còn nhớ, em thì quên

Cái nơi tôi đã cùng em hẹn hò

Hiếu Giang đêm ấy trăng mờ

Tôi sai chút hẹn, em vờ giận tôi

Thế rồi môi đã kề môi

Thế rồi tôi đã ngõ lới yêu em

Nhớ không em đường Thanh Niên

Lối mòn ngày ấy mà nên cuộc tình

Cồi Soi bóng nước lặng in

Dáng em đêm vắng một mình đợi tôi

Chuyến tàu qua đã lâu rồi

Con thuyền khuya đã về nơi cuối dòng

Hiếu Giang, em có nhớ không

Câu thơ ngày ấy tôi thầm gọi tên

Mượn vần lục bát làm quen

Câu duyên, câu nợ mà nên nghĩa tình

Hay là em chỉ vờ …quên

Nhắc chi chuyện cũ làm em thẹn thùng

NHT


HẠNH PHÚC VÀ CHIA SẺ… Lê Đức Dục

Rất nhiều lần, những cuộc gặp mặt bạn bè, ở cái tuổi bước qua "ngũ thập tri thiên mệnh”, nhớ về tuổi thơ khó nghèo, chúng tôi vẫn có cùng cảm giác, ngày xưa tuy nghèo khó nhưng tình người chan chứa hơn bây giờ, khi mà chủ nghĩa vật chất đang lên ngôi.Và nghĩ tới mối quan hệ giữa "vật chất” và "hạnh phúc”, tôi lại nhớ về xứ sở bên triền Hymalaya mà tôi có dịp đặt chân tới : Bhutan.

Vâng, Bhutan!
Bây giờ đến Bhutan không còn là chuyện khó khăn như 5-7 năm trước, ngay dịp Tết Mậu Tuất 2017 này, đã thấy chộn rộn những chuyến "charter flight” bay thẳng từ Việt Nam sang Bhutan (charter flight là cách gọi các chuyến bay thuê bao trọn gói nguyên chuyến của các hãng lữ hành đến điểm du lịch, không phụ thuộc lịch bay của các hãng hàng không). Bhutan- miền đất được gọi là xứ sở hạnh phúc , là địa đàng. Một quốc gia bé nhỏ, kẹp giữa hai đất nước khổng lồ là Trung Hoa và Ấn Độ, vậy mà vẫn an nhiên tự tại giữa những ngọn tuyết sơn bên triền Hymalaya hùng vĩ.
Mười năm trước, lần đầu tôi biết đến xứ này khi đọc bút ký "Thênh thang trên xứ non cao” của nhà văn Cao Huy Thuần, và cực kỳ ấn tượng khi ông nhận xét rằng : "Nếu muốn, Bhutan sẽ trở thành bất cứ quốc gia nào trên thế giới, nhưng nếu muốn cũng không có quốc gia nào trên thế giới có thể trở thành Bhutan”.Chính nhận xét đó đã khiến tôi ấp ủ giấc mơ đặt chân đến Bhutan và rồi tôi đã đến được. Đặt chân lên Bhutan rồi , càng ngạc nhiên hơn khi biết cái quốc gia bé nhỏ đó lại lấy hạnh phúc của dân làm thước đo cho sự phát triển chứ không phải là các con số GDP quay cuồng chóng mặt như ở phần còn lại của thế giới. Khi người ta cứ nhất nhất phải là tăng trưởng GDP (viết tắt của Gross Domestic Product-là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ trong một khoảng thời gian nhất định. Khi áp dụng cho phạm vi toàn quốc gia, nó còn được gọi là tổng sản phẩm quốc nội) thì xứ Bhutan kia lại đưa ra một khái niệm mới về chỉ số hạnh phúc quốc gia : GNH (Gross National Happiness ).Chính Quốc vương Bhutan- Jigme Singye Wangchuck (cha của nhà vua hiện tại-Jigme Khesar Namgyel Wangchuck ) từ năm 1972 đưa ra khái niệm này với bốn ý tưởng cốt lõi: khuyến khích phát triển mô hình kinh tế-xã hội bền vững và công bằng; bảo tồn và cổ súy giá trị văn hóa; gìn giữ môi trường thiên nhiên và thiết lập cơ chế quản lý hiệu quả.

Khái niệm Gross National Happiness giờ đang khiến nhiều quốc gia phát triển đến đỉnh như Nhật, Mỹ..phải xem lại mình. GDP của Bhutan là 500 triệu đô la, GDP của nước Nhật là 4.400 tỷ đô la, nhưng một người Nhật có hạnh phúc hơn một người Bhutan không? Câu trả lời khó mà chắc chắn!

Nhưng nếu nói một quốc gia hạnh phúc chỉ căn cứ trên những triết lý thì cũng…mơ hồ quá. Hạnh phúc là một khái niệm vô cùng trừu tượng. Nhà thơ Bằng Việt từng viết : Hạnh phúc ta cần,thực cũng giản đơn thôi/Như chỉ ở trước ta thêm một tầm tay với / Ngỡ rảo bước là sớm chiều đã tới / Suốt một đời, sao vẫn giục mình đi?Cuộc sống vần xoay chóng mặt, với người này hạnh phúc là có biệt thự to, ô tô xịn, với người kia chỉ là bữa cơm sum vầy ấm áp, với người nọ hạnh phúc là một giấc ngủ an lành. Còn với người Bhutan? Nếu lấy thước đo hạnh phúc là tiện nghi, là sự thụ hưởng vật chất thì nên nhớ những phương tiện bình thường của các nước văn minh có từ đầu thế kỷ 20 thì tại Bhutan cho mãi đến năm 1999 mới có chiếc ti vi đầu tiên (!), và chiếc điện thoại di động, bây giờ vẫn còn là một sản phẩm không phải ai cũng có thể sắm được.

Giữa cõi người đầy sân si, những giá trị vật chất được mang ra làm thước đo hạnh phúc thì Bhutan vẫn điềm tĩnh giữ một sự quân bình hiện diện trên những giá trị vật chất cụ thể, ví như chuyện xe cộ , nhà cửa. Chẳng cần nói đâu xa, ở xứ ta, nhìn vào ngôi nhà chủ nhân đang ở, nhìn vào chiếc ô tô đang đi , nhìn vào nhãn hiệu trên trang phục…người ta có thể phân biệt được sự giàu nghèo qua tài sản được thể hiện. Ở Bhutan thật khó mà nói được điều đó khi nhìn vào nhà cửa hay xe cộ! Kiến trúc nhà ở của Bhutan tuân thủ theo quy định riêng, cùng khuôn mẫu kế thừa như kiến trúc các dzong, có thể thấy nhà này to hơn nhà kia chút ít nhưng không thể nhìn vào đấy để đánh giá khoảng cách giàu hay nghèo, xấu hay đẹp.

Cũng tương tự như thế, trên đường phố của các đô thị lớn ở Bhutan mà chúng tôi từng đến, chiếc xe ô tô gia đình thông dụng hầu hết là loại xe nhỏ 4 chổ ngồi hiệu Maruti của hãng xe Suzuki (nhang nhác như Kia Morning ở Việt Nam), hiếm hoi lắm mới thấy những chiếc Toyota Prado hay Santa Fe ..Ngay một người bạn mới quen của tôi, Tổng giám đốc Đài truyền hình Bhutan (Bhutan Broadcasting Service-BBS) , anh Tashi Dorji khi đến khách sạn đón chúng tôi đi cà phê, anh và gia đình cùng đi trên một chiếc Huyndai i20 rất bình dân. Trang phục của người Bhutan thì ai cũng như ai, luôn là những chiếc ghokiratruyền thống. Hình như người Bhutan ít mắc phải hội chứng "phải hơn chúng nó” như nhiều xứ khác. Và với sự an lạc nội tâm ấy, họ hạnh phúc hơn nhiều những ai cứ suốt ngày loay hoay "sao nhà mình nhỏ thua nhà nó, sao xe nó đẹp hơn xe mình”…

Bức tranh xã hội không quá đối lập với nhau giữa giàu và nghèo , giữa vua và dân đã khiến cho người dân Bhutan hạnh phúc. Và tôi nghĩ chính sự chừng mực trong khoảng cách ấy chính là một sự chia sẻ. Chia sẻ không phải chỉ là trích một phần thu nhập của mình ra để làm từ thiện,không chỉ san bớt bát cơm trên tay mình cho kẻ hành khất đang đói khát. Chia sẻ còn là sự tiết chế những se sua của mình trước đồng loại. Rất nhiều lần, hình ảnh nhà vua Bhutan cùng gùi hàng lên các tu viện để cúng dường, khi đó vua và dân đều cùng gồng gánh như nhau. Cái hình ảnh ấy cũng là một sự chia sẻ. Không hiểu sao viết đến đây tôi lại nhớ những câu thơ của Phùng Quán:
"Tôi có quyền gì được no hơn nhân dân tôi một miếng ăn?

Tôi có quyền gì được lành hơn nhân dân tôi một manh áo?

Tôi có quyền gì được rộng hơn nhân dân tôi một tấc vuông nhà ở?

Tôi có quyền gì được lên xe xuống ngựa

Khi gót chân nhân dân tôi nứt nẻ bụi đường?...”

Rồi lại lan man nhớ sang những tuyên ngôn của nhà văn Dumbatze trong cuốn "Quy luật của muôn đời” : "Tâm hồn con người nặng gấp trăm lần thể xác. Nó nặng đến nỗi một người không mang nổi... Bởi thế người đời chúng ta chừng nào còn sống phải ra sức giúp đỡ nhau, gắng làm cho tâm hồn trở nên bất tử, ông giúp cho tâm hồn tôi sống mãi, tôi giúp người khác, người ấy lại giúp người khác nữa, cứ thế đến vô cùng..” Vì tâm hồn nặng gấp trăm lần thể xác nên không lạ gì giữa vần xoay hôm nay ta lại thấy không ít kẻ tiền muôn bạc vạn nhưng không tìm được sự an lạc trong tâm hồn.Và có khi phải trả giá bằng những ngày tháng tù tội mà câu chuyện "đốt lò” những tháng qua là một minh chứng.

Trở lại với người dân Bhutan, dường như họ đã đạt đến niềm tin an lạc, chứng ngộ hạnh phúc trong mỗi khoảnh khắc cuộc đời vì người Bhutan luôn thường trực một đức tin trong thẳm sâu tâm thức. Nhiều khi chúng ta vì cứ trượt theo những clip quảng cáo trên truyền hình, học theo những tập phim xứ người dài lê thê mà không nhận ra chính ta đã đánh mất hạnh phúc ta đang có. Sách xưa nói về hạnh phúc có câu: "Tri túc nhi túc”, biết đủ là đủ, nhưng rồi dân gian cũng có câu "lòng tham vô đáy”. Có khi nào đó chúng ta giật mình để biết rằng những ảo vọng phù phiếm kia rồi cuối cùng cũng chỉ là cát bụi. Bao nhiêu người quay cuồng trong cuộc vần xoay, mong có được cung vàng điện ngọc, mà không nhớ ra rằng, ngày xưa, một vị thái tử con Vua đã từ bỏ hết cung vàng điện ngọc để chọn cho mình một chổ ngồi dưới một bóng cây Bồ Đề để chứng ngộ sự an lạc mà thành Phật! Những người dân Bhutan, họ hạnh phúc –có lẻ đơn giản là họ hiểu ra rằng cõi an lạc ở ngay dưới chân mình, và thẳm sâu trong chính tâm hồn họ!

                                                                           LĐD

NGÀY XUÂN BÀN VỀ MÀU SẮC TRONG VĂN HÓA DÂN GIAN—Chu Mạnh Cường

Màu sắc đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của mỗi dân tộc. Ở đâu, có màu sắc, ở đó có sự sáng tươi, rực rỡ. Vì thế, từ xưa con người đã áp dụng màu sắc vào trong từng sinh hoạt - vật dụng, kiến trúc, thực phẩm; ngoài để làm đẹp và thi vị hơn những gì đang có, còn truyền tải những thông điệp, biểu tượng về niềm vui, tình yêu, tuổi trẻ và tài lộc. Một trong những màu sắc được yêu thích nhất có lẽ là màu đỏ và là màu của đam mê – khát vọng. Nó giống như một ngọn lửa thôi thúc mọi người làm việc,vui chơi, kết giao, cũng từ đó nảy sinh may mắn, hạnh phúc. Với dân gian ta, đỏ còn có nghĩa về hỷ sự, cái mới, tuổi thọ, sự thiêng liêng- linh ứng. Vào các ngày vui như lễ Tết, cưới hỏi, mừng thọ, khánh thành, buôn bán, xuất hành ai nấy đều mặc áo đỏ, trang hoàng nhà cửa bằng vật đỏ để cuộc sống vui tươi, mới mẻ. Các cụ già và trẻ em cũng mặc hồng y nhằm tăng cường sức khỏe, sinh lực. Chùa chiền, miếu mộ và ban thờ của người Việt rất hay được sơn đỏ để tôn vinh thánh thần và cầu xin các vị phù hộ cho quanh năm lúc nào cũng thật hên, thuận lợi. Và để phúc lành lan tỏa, trong ngày hội trai gác nô nức rước kiệu Phật Thánh quanh làng.

Tại Ấn Độ, đỏ là màu tối quan trọng bởi nó có tác dụng xua tà khí, làm tươi tắn, thúc đẩy quyền lực, sắc đẹp và hăng say trong nhà. Do vậy, không chỉ Tết mà thường ngày, người Ấn cũng diện màu đỏ, sơn tường, vẽ tranh bằng bột đỏ, ăn canh đậu, bánh kẹo đỏ. Cô dâu Ấn luôn mặc váy đỏ và vẽ trên tay chân những họa tiết henna đỏ trong ngày cưới để thể hiện tình yêu son sắc của chị với chồng, và khi về nhà trai, cũng được chú rể vẽ thêm một vết son sindoor ở trên trán nhằm khẳng định tình cảm thương mến của anh và nhấn mạnh từ nay chị đã có chồng. Kể từ phút này, người vợ vẽ sindoor hàng ngày như là một biểu tượng bảo an, giữ gìn hạnh phúc gia đình. Ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ, người Thái cũng thường mặc áo đỏ như màu may mắn, và dành một ngày chuyên dùng đỏ là chủ nhật nhằm tôn sùng thần mặt trời. Họ tin rằng, vào chủ nhật mà vận sắc đỏ, cơ thể sẽ hồng hào, tràn trề sức mạnh.Với người Nga, Ba Lan, Tiệp Khắc và nhiều nước châu Âu, đỏ cũng là màu của cái đẹp, sự hồi sinh và hy vọng. Sau một mùa đông giá lạnh, tuyết trắng xóa, người ta sẽ trưng quanh nhà màu đỏ để xua tan lạnh lẽo đón xuân. Vào Giáng Sinh, ai nấy đều háo hức chờ ông già Noel là một vị thánh mặc áo đỏ gõ cửa từng nhà, hoặc chui qua ống khói vào nhà để tặng quà trẻ em. Ông chính là hiện thân của sự đoàn viên, của cải và niềm vui bất ngờ. Ở phương Tây, nhất là Mỹ, sau Tết còn có lễ Tình nhân Valentine. Theo đó, trai gái thường tỏ tình bằng những đóa hoa hồng. Những ai mà nhận hồng nhung là đã chấp nhận tình yêu của người kia. Còn nhận hồng vàng thì chỉ mới xem người ấy là bạn.

Cùng đỏ, màu vàng cũng là màu cho phú quý – sang giàu. Dường như ở đâu mọi người cũng chuộng màu vàng, xem nó là biểu tượng của cuộc sống đủ đầy,vương giả. Nhất là các nước có nền quân chủ thì vàng luôn là màu của hoàng gia, được vua chúa, quan chức chuyên dùng, qua đó dân gian sẽ nhận ra địa vị của người ấy. Tại Việt Nam một thời, cũng chỉ có nhà giàu được mặc áo vàng, còn nhà nghèo thì mặc áo nâu đen. Hôm nay, ai nấy đều có thể mặc áo vàng tùy ý, và xem nó là màu của sự phồn vinh, thịnh vượng, của gia đình cũng như đất nước, nhất là trong nông nghiệp, thương mại. Người Việt thường trưng màu vàng quanh nhà để nhà cửa đề huề, mùa vụ bội thu, công việc thắng lợi. Đa số kiến trúc ở Bắc Trung Nam Bộ đều sơn vàng, nhất là dịp Tết hay khi mới làm tân gia vì nó cho vẻ khang trang, sang trọng. Ngày xuân, mọi người cũng hay bày nhiều hoa lá, tranh tượng có sắc vàng để của cải, tiền tài lan tỏa. Người Hoa khá giống người Việt trong việc này, song ngoài ý nguyện giàu có, họ còn dùng màu vàng để mong sớm có con trai nối dõi và thi cử đỗ đạt. Người Nhật lại hướng đến vẻ đẹp thanh tao hay dũng mãnh, cả trai lẫn gái đều mặc áo vàng được tin là sẽ duyên dáng. Người Thái do theo đạo Phật với sắc vàng là kim thân Phật và màu áo của các đại sư nên họ dùng màu vàng nhằm cầu mong sự chở che của Đức Phật, mau gặp điều lành- trí tuệ. Mỗi khi mặc áo vàng, mỗi người đều tỏ rõ sự hân hoan, lạc quan.

Phần lớn các dân tộc đều thích màu lục hay xanh lá bởi nó thể hiện cho thiên nhiên, cây cỏ là thứ nuôi dưỡng nhân loại. Người Việt luôn coi xanh lá là màu của sinh lực, của cải, vận hội. Xung quanh nhà lúc nào cũng rợp bóng cây xanh. Bữa cơm luôn chứa nhiều rau, áo quần cũng vậy, nhất là trang phục của thanh niên, học sinh- sinh viên và trong tiếng Việt có khá nhiều từ chỉ tuổi xuân từ màu xanh, như tóc xanh, mắt xanh, tuổi xanh. Người Nhật cũng coi lục là biểu tượng của tuổi trẻ, trường thọ. Họ có ba nghệ thuật nổi tiếng là cắm hoa, làm kiểng bonsai và trà đạo đều dung màu xanh cho mọi thứ xinh đẹp.

Tại Ấn Độ, xanh lá ngụ ý về một sự khởi đầu mới tốt lành và tinh thần của đạo Hồi. Trước khi làm việc gì, thanh niên Ấn thường mặc áo xanh lá để lấy may. Còn nữ giới mặc áo xanh lá để khoe diễn vẻ đẹp rạng ngời, trinh tiết. Tại Ireland và nhiều nước châu Âu, đây lại là màu cho sự phát triển, sinh sôi. Lục chính là quốc sắc Ireland vì nhờ phong cảnh xanh tươi mà nước này có tên Đảo Ngọc. Để giữ gìn vẻ đẹp ấy, mỗi năm người ta rất ít chặt cây và còn trồng thêm cây. Ở Mỹ, lục lại tượng trưng cho tài lộc vì nó cùng màu với đồng đô la. Người Mỹ thường đút một số tờ tiền trong ví và làm cây tiền đô la, đặc biệt là tiền có mệnh giá cao cho suốt ngày rủng rỉnh tiền.

Lam- xanh lơ là một màu phổ biến ở nhiều dân tộc nhất trên thế giới. Ở cả châu Á lẫn Âu Mỹ, người dân đều xem nó là màu hiền dịu, êm ái, giúp giải tỏa mọi căng thẳng, nhọc mệt. Với người Việt, lam là màu chỉ hòa bình, sự vĩnh hằng và tối linh. Là một màu giản dị, ai dùng cũng được, không gây sự phân biệt, cũng là màu trời, màu nước và tâm hồn. Khi miêu tả không trung- thiên đình, mặt nước- thủy cung và sự sâu xa, huyền bí, người Việt luôn dùng đến lam. Mọi người còn cho rằng, lam có thể trục tà, kỵ gió, chữa bệnh nên làm rất nhiều thứ màu lam, mà nổi bật là sành sứ, khảm gốm, trang phục các dân tộc. Tương tự, người Ấn cũng xem lam là màu gần gũi và thuần khiết. Trong văn hóa Ấn Độ, xanh lơ là màu da Krisna, một đại thần của đạo Hindu, và hiện thân của tình yêu và các thú vui dân dã. Có khá nhiều đội thể thao Ấn dùng lam để biểu thị sức mạnh và đoàn kết. Tại châu Âu và Bắc Mỹ, lam cũng tượng trưng cho sự bình tĩnh, chín chắn và lòng tin. Nhiều ngân hàng ở đây đều có logo màu này. Lam đôi khi cũng chỉ dòng máu hoàng gia và những công việc cần động não, chất xám. Và về lĩnh vực tôn giáo, thường gợi nhớ đến hình ảnh Đức Mẹ đồng trinh – người mặc trang phục xanh lơ, lúc nào cũng dõi theo dân chúng. Giống như lam, tím là màu đằm thắm, lãng mạn và của tình yêu chung thủy.

Tại Việt Nam, đây là màu rất cao quý, thường được ví với hoàng triều. Vua chúa, quan tướng luôn dùng rất nhiều trang phục, vật dụng tím. Tại Anh và Pháp, tím cũng hay được dùng để làm quần áo, vật dụng cho nhà vua, và ở Mỹ là các huy chương cho các sĩ quan trong quân đội. Tuy nhiên, hôm nay, nói chung các nước đều dung màu tím nhằm diễn tả sự ngọt ngào, thùy mị của người con gái. Trong đó ở Việt Nam có người con gái Huế trong tà áo dài tím.

So với các màu trên, cam là màu độc nhất rực rỡ song không nóng bỏng, lại là màu của mặt trời, mùa thu nên cực kỳ được ưa chuộng để chỉ sự phú quý, thịnh vượng. Người Việt luôn dùng màu cam trong thiết kế, may mặc, nhà cửa vì nó ấm áp, sôi nổi, rất nhanh thu hút tiền tài. Tại Nhật Bản, màu cam còn biểu thị sự can đảm, nhẫn nại, dám nghĩ dám làm. Ở phương Tây, nó cũng có ý nghĩa tương tự, khiến mọi người tò mò, thích sáng tạo, phiêu lưu. Ở Ấn Độ, nó lại cho sự may mắn và danh tiếng. Người Ấn thường chúc mừng quý khách, tranh trí tượng đài bằng các vòng hoa màu cam, và chế ra nhiều gia vị màu cam đậm đà, bắt mắt. Riêng ở Hà Lan, đây là màu sắc hoàng gia với nhiều thứ quan trọng mang màu cam. Tại Colombia và Mỹ La Tinh, cam là biểu tượng của đất đai phì nhiêu nên làm gì người dân cũng vận màu cam, nhất là dịp lễ Tết và sự kiện trọng đại cầu mong phúc lộc, may mắn. Có thể nói mỗi màu sắc mang một sức mạnh to lớn và tạo nên những nét đẹp nhân văn, thể hiện qua nhiều phong tục, tập quán lâu đời.

CHU MẠNH CƯỜNG Lh: 97, ngõ 143, phố Chợ Khâm Thiên, phường Trung Phụng, quận Đống Đa,Hà Nội. ĐT: 0945 054 448

ĐẶC SẢN QUÊ HƯƠNG

Khi thời tiết bắt đầu chuyển hè, dưới cái nắng chói chang của biển, ngư dân ở các vùng biển bãi ngang bắt đầu lặn ngụp trong nước biển để cào ốc ruốc (có nơi gọi là con chần chần). Loài sinh vật biển chỉ nhỏ bằng đầu đũa, đầy sắc màu lung linh rực rỡ là món ăn dân dã, khoái khẩu của rất nhiều người, nhất là trẻ con và phụ nữ

Khoảng từ tháng tư dương lịch hàng năm, ốc ruốc thường quần tụ thành từng đám dày đặc, ẩn mình dưới lớp cát biển gần bờ. Từ lúc tờ mờ sáng, cánh đàn ông của các làng biển bãi ngang đã chuẩn bị vợt, túi… xuống biển cào ốc ruốc. Vợt cào ốc ruốc được làm bằng đoạn tre dài khoảng mét sáu, được chẻ thành hai rồi lắp khung cào (thanh sắt mỏng hình tam giác) để cào ốc. Bao bọc xung quanh khung sắt là túi lưới mắt nhỏ hình phễu để giữ ốc trong lúc cào (giống hệt chiếc cào hến, cào nghêu trên sông). Khi cào ốc ruốc, cánh đàn ông thường dùng đai cao su (quấn quanh người) nối với chiếc cào bằng sợi dây thừng, rồi cầm cào đi giật lùi theo từng đợt sóng biển. Cứ cào một đoạn thì bắt đầu lắc nhẹ để nước biển rửa trôi bớt cát, lộ ra những con ốc ruốc nhiều màu sắc.

Để đưa được nhiều ốc ruốc vào lưới, người cào ốc ruốc phải nhấn lưỡi cào ngập sâu từ khoảng một tấc trong cát. Công việc cào ốc ruốc đòi hỏi người cào có sức khỏe, chịu được nắng, gió của biển. Nghề cào ốc ruốc mang lại nguồn thu nhập khá cho nhiều ngư dân vùng biển bãi ngang. Mùa cào ốc ruốc thường kéo dài từ tháng 4 đến tháng 7 (dương lịch) hàng năm.

Bình quân, mỗi nhát cào được từ 7 - 10kg, mỗi người có thể cào được từ 50 đến hơn 100kg/ngày.

Ốc được bán cho thương lái ngay tại bờ biển với giá từ 6.000 - 8.000 đồng/kg hoặc bỏ mối bán cho các điểm thu mua nhỏ, giá hơn 10.000 đồng/kg. Như vậy là đến mùa ốc ruốc, mỗi người cũng kiếm được khá tiền.

Cách chế biến ốc ruốc khá mất công. Ốc ruốc cào đem về ngâm nước muối qua 1 đêm, bỏ thêm nước vo gạo ốc càng sạch cát. Cái quan trọng nhất là làm cho con ốc sạch cát. Luộc ốc thì rất nhanh, độ khoảng 5-10 phút là ốc chín.

Ốc ruốc luộc xong bỏ thêm xả xắt lát mỏng, lá chanh thái sợi, trộn chung với muối, bột ngột và ớt bột. Đảo nhanh tay cho các thứ gia vị hòa vào nhau là đã làm xong cái món ốc ruốc.

Để ăn ốc, người ta thường dùng gai cây chanh hoặc cái cây gai ngoài bụi, có người thành phố không có gai đấy thì dùng cả… tăm, cũng có người dùng cây kim băng để lể ốc. Cái gì cũng vậy, làm lâu rồi cũng quen tay. Những chị em phụ nữ hay trẻ con, đều lể ốc guốc nhanh như chớp. Thịt ốc ruốc bé tẹo nhưng qua chế biển có vị cay cay, mằn mặn, beo béo… nhất là phần đuôi ốc.

Người ta thường lể ốc guốc, vừa ăn vừa trò chuyện. Thịt ốc ruốc vừa thơm ngon vừa dai dai, vừa beo béo, vừa cay cay của ớt, gừng, tha hồ mà thích thú, ăn mãi không chán. Có người lể ốc cho vào miệng nhai liền, nhưng cũng có người lể vài con rồi mới cho vào miệng để ăn cho đã.

Ăn gì thì không biết, nhưng lỡ ăn ốc uốc rồi thì thành nghiện, khó bỏ lắm. Ăn món này không chỉ ngon mà còn có dịp tụ tập người quen trò chuyện vừa giết thời gian, giúp xả mọi bực dọc,thoái mái đầu óc.

Những ai có dịp ghé qua vùng Quảng Trị vào mùa hè, xin dừng chân ở Cửa Tùng, Cửa Việt, thưởng thức món ốc ruốc này nhé. Chắc chắn ngon.

                                                                               Đông Hương

MÓN RẠM

Ở Quảng Trị, rất nhiều người biết về con rạm. Con rạmcùng họ với con cua, sống ở vùng nước lợ nơi cửa sông đổ ra biển. Con rạm nhỏ hơn con cua đồng, vỏ cứng, mình dẹt, có nhiều gạch.

Khi tới mùa sinh sản, rạm kết đôi và kết thành bè, kéo nhau ra cửa sông. Ở nước ta, con rạm có mặt ở khắp các vùng miền từ Bắc tới Nam. Tháng 3 âm lịch và tháng 10 là rạm vào mùa. Lúc này, rạm mới thơm ngon,có nhiều gạch và chắc thịt nhất.

Con rạm có nhiều gạch,nên thịt ngọt và béo. Trong bữa ăn mà có thêm món rạm kho thì có lẽ bữa cơm sẽ ngon hơn, cứ và miếng cơm, ăn thêm con rạm, nhai ngáu ngáu quả là thích thú.

Rạm có giá trị dinh dưỡng cao, Được biết rạm họ cua, rất giàu protid; lipid; Ca; P; Fe; vitamin B1, B2, PP, và nhiều dưỡng chất tốt cho cơ thể. Nghiên cứu về dược tính,đông y cho rằng, thịt rạm gần giống thịt cua " có vị mặn, mùi tanh, tính mát, hơi độc, tác dụng bổ khí huyết, liền gân xương, thông huyết mạch, trừ nhiệt tà, sang thương huyết ứ”.

Dùng rạm ăn rất tốt với chứng trẻ em còi xương, ốm yếu, chứng huyết ứ đau tức ngực sườn, tê mỏi tay chân, mụn lở lâu lành, và các chứng liên quan đến khí huyết ứ trệ đều dùng tốt. Sau đây là một vài món ăn- bài thuốc dược thiện từ con rạm:

- Chữa chứng cảm nắng mùa hè.Phép trị thanh nhiệt, dưỡng âm, an thần.

Dùng bài "Canh ram rau đaygồm: thịt rạm, rau đay, mướp hương, giá đậugia vị vừa đủ nấu canh ăn. Bằng cách rạm xay lọc lấy thịt nấu canh rau tuần vài lần.

-Chữa xương gãy lâu lành. Phép trị bổ khí huyết, dưỡng gân xương.

Dùng bài "Bánh canh rạm đồng” gồm; thịt rạm, xương heo, cà chua, hành lá, rau mùi, hành khô, bánh canh, rau thơm, gia vị vừa đủ nấu ăn.

-Chữalưng, đùi, gân xương đau.Phép trị bổ khí huyết, dưỡng gân xương.

Dùng bài "Bún riêu rạm đồng” gồm: thịt rạm đồng, cà chua, đậu phụ, huyết heo, bún gạo,rau muống chẻ, bắp chuối bào, giá đậu, húng quế, hành ngò gia vị vừa đủ nấu ăn.

-Chữa thận yếu sinh lý yếu.Phép trị bổ thông khí huyết, ích tỳ thận.

Dùng bài "Lẩu rạm đồnggồm; rạm đồng, xương lợn, tôm sú, giá đậu, hoa lý, rau đắng, nấm hương, nấm rơm, cà chua, hành ngò gia vị vừa đủ nấu lẩu ăn.

-Chữachứng huyết ứ đau tức ngưc sườn.Phép trị bổ thông khí huyết, ích tỳ thận.

Dùng bài "Rạm tẩm bột chiêngồm: Rạm đồng, lá lốt, bột ngô, dầu ăn, gia vị chiên ăn. Bằng cách ram rữa sạch tách gộp, yếm, tẩm bột, trứng, lá lốt, chiên ăn.

-Chữa phụ nữ huyết hư hay đau đầu.Phép trị bổ khí huyết, hóa ứ điều kinh

Dùng bài "Canh rạm đồnggồm: thịt Rạm đồng, cà chua, me, hành ngò mắm muối gia vị. Bằng cách luộc Rạm lấy thị phi hành mỡ cho chín thơm để riêng, khi nấu canh cà chua chín và cho cua vào nấu sôi lại nêm gia hành ngò vừa đủ ăn.

-Chữa trẻ nội nhiệt chậm lớn.Phép trị thanh nhiệt, dưỡng âm.

Dùng bài "Canh rạm ngó khoaigồm: thịt rạm đồng, ngó khoai, rau dền,rau đay gia vị vừa đủ nấu ăn.

- Chữa chứng phiền nhiệt khó ngủ. Phép trị bổ khí huyết thanh nhiệt, dưỡng âm.

Dùng bài "Canh rạm đồng hoa lýgồm: thịt rạm đồng, hoa lý, gia vị vừa đủ nấu canh ăn thường xuyên. Bằng cách rạm xay lọc lấy thịt nấu canh rau.

-Chữatrẻ em da nóng hay nổi mun rôm sảy. Phép trị bổ khí huyết, trừ nhiệt tà.

Dùng bài "Canh rạm đồng nấu khổ qua” gồm: thịt Rạm đồng, khổ qua thái lát, gia vị vừa đủ nấu ăn. Bằng cách Ram rữa sạch bỏ mai yếm ướp gia vị sau phi dầu mơ cho thơm cho rạm rang chín thơm, sau cho nước va khổ qua thái lát vào đu sôi khoảng 5 phút là ăn.

Lưu ý: Ram thuộc loại bổ dưỡng giàu đạm nên kiêng hạn chế với người đang bị đau khớp do gút, người đang cần giảm cân, phụ nữ có thai thai lớn nên hạn chế, người dễ bị dị ứng hải sản.

                                                                                                 Sưu tầm

BÁNH TU HUÝT

Những người sinh ra từ Quảng Trị, có lẽ không ai không biết bánh Tu Huýt. Chiếc bánh được làm ra từ những nguyên liệu sẵn có của địa phương nghèo khó, vốn lấy củ khoai, củ sắn thay cơm.

Để làm món bánh tu huýt người ta phải chọn những củ sắn, củ khoai không bị sâu, có chất lượng ngon, đem đi cạo sạch lớp vỏ lụa bên ngoài rồi thái lát mỏng, phơi khô. Sau đó người ta cho vào túi hay bao nilon để bảo quản lâu dài. Thường là vào mùa mưa thì người dân nơi đây mới đem ra làm bánh Tu Huýt.

Khoai, sắn thái lát phơi khô được mang ra, xay thành bột mịn . Những bột này sẽ đem trộn với nhau cùng với đường mía, cho nước vào nhào thật dẻo để bột cùng đường quyện chặt. Có thể,người ta sẽ trộn thêm một nước nước đậu đen, đậu đỏ hoặc lạc để tạo nên những chiếc bánh Tu Huýt hấp dẫn hơn.

Bột đã nhào sẽ được nắm vào chiếc đũa sao cho những chiếc bánh đều, chặt, khi bánh đã mịn, bám chắc thì rút đũa ra tạo nên một lỗ giữa bánh. Đem những chiếc bánh đã nặn này vào nồi hấp, hoặc nếu làm ít có thể bỏ vào nồi cơm khi cạn nước hấp, ăn sẽ càng thêm thú vị.

Khi bánh Tu Huýt chín sẽ có màu nâu mịn màng và thơm mùi khoai, đậu, sắn và mang vị ngọt dịu của đường mía.

Bánh Tu Huýt là món ăn của người dân Quảng Trị .Ăn bánh Tu huýt phải ăn nóng mới ngon. Do ăn lúc bánh nóng, nên vừa ăn bánh phải vừa thổi cho bánh nguội. Khi thổi vào bánh cũng là thổi vào lỗ giữa thân bánh tạo nên những âm thanh nghe như những âm thanh của người ta thổi vào con tu huýt làm bằng đất của trẻ con vậy.Cũng có lẽ vì thế, những chiêc bánh làm bằng bột khoai, săn này người ta gọi là bánh Tu Huýt.

Bánh Tu Huýt (Tù Huýt) Bánh chín có màu nâu, mịn màng, dậy mùi thơm của khoai, đậu, dẻo dẻo của sắn và ngọt dịu của đường, ăn rất thú vị.

Giờ thì ít nơi làm bánh Tu Huýt, nhưng vẫn còn. Khách du lịch lần đầu ăn bánh Tu Huýt sẽ rất ngạc nhiên và thích thú với món lạ này, còn những nhười con xa quê của Quảng Trị, khi ăn bánh Tu Huýt sẽ gợi nhớ đến quê

Quả thật bánh Tu Huýt là một món có nhiều ý nghĩa và giá trị. Món của Quảng Trị!

                                                                                            Sưu tầm

MÓN NUỐT

Cứ mỗi mùa Hè nếu ai có dịp về với vùng quê ven sông Hiền Lương, sông Sa Lung thuộc huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị thì rất dễ bắt gặp hình ảnh người dân sử dụng những tấm lưới chài cỡ lớn để bắt con nuốt, một loài cùng họ với sứa nhưng sống ở vùng nước lợ và chỉ xuất hiện nhiều vào khoảng thời gian từ tháng Tư đến tháng Tám trong năm. Con nuốt sông thường nhỏ hơn sứa, kích cỡ chỉ khoảng bằng bàn tay. Khi ở dưới nước nuốt có màu trắng nhưng khi được vớt lên nó chuyển dần sang màu xanh nhạt da trời.

Con Nuốt có hai loại: nuốt tai và nuốt chân; nuốt tai giòn mềm, nuốt chân giòn tan, nhai sần sật rất khoái khẩu.

Mùa hè là mùa con nuốt xuất hiện. Từng đám nuốt di động trên mặt nước, loáng loáng, trông như vườn hoa di động. Con nuốt không có mắt, không có vây, không có tai, không có đuôi và cũng không có xương... Người đi biển gặp thảm nuốt thì lấy dây buộc lại và dùng thuyền máy kéo lôi vào bờ. Nuốt được mang lên trên bờ. Người ta dùng dao sắc cắt thân nuốt ra làm nhiều miếng nhỏ bằng ngón tay cái, trông giống như nấm hay hình chuông gọi là nuốt tai. Còn chân nuốt cũng đem cắt nhỏ có dạng sợi dai, màu trắng đục gọi là nuốt chân. Nuốt tai, nhìn trong suốt mọng nước, ngả mầu xanh dương, còn nuốt chân ó màu trắng đục, giòn như sụn. Nuốt chân thường ngon hơn nuốt tai nên được bán với giá cao hơn.Người lớn thích ăn nuốt tai, còn trẻ con thích ăn nuốt chân.Nhưng phần đông khi mua người ta hay mua cả nuốt chân lẫn nuốt tai.

Món nuốt bình dân đơn giản là nuốt chấm ruốc.Nuốt kẹp với với rau thơm, nhất là rau răm, quả vả, chuối chát hay tân chuối non thái mỏng, chấm với ruốc pha chanh, ớt tỏi ; khi đã có vị cay cay, mằn mặn, món nuốt ngon và hấp dẫn vô cùng.

Mùa hè nếu bạn ghé qua Quảng Trị nhớ ăn cho được món nuốt nhé, chắc chắn sẽ mát và ngon.

                                                                                                Giang Anh

LỜI NÓI DỐI ĐẦU TIÊN—Truyện ngắn Đào Trường San

Bốn chúng tôi sinh cùng một năm, nghĩa là cùng một tuổi và học chung một lớp, đều sinh ra ở vùng giới tuyến. Tôi, Linh, Loan là con gái còn Nam là con trai. Trong nhóm, bạn Linh lớn con hơn cả. Linh có tính chịu khó, cần cù và chưa bao giờ nói dối nên được chúng tôi tôn làm nhóm trưởng.

Trường cách nhà của chúng tôi ở gần mười cây số. Sáng, chúng tôi thường đợi nhau ở giếng Xép, để cùng đi đến trường. Thường khoảng mười một giờ trưa thì tan lớp, bốn chúng tôi vui vẻ đi về nhà. Những hôm trường tổ chức phụ đạo hay ngoại khóa chúng tôi mang theo cơm nắm, ở lại trường và chạng vạng tối mới về đến đầu thôn.
Ở quê, về mùa đông, trời rét, mưa rả rích suốt ngày. Có những hôm mưa vuốt mặt không kịp. Từ trong nhà nhìn ra ngoài trời, những cơn mưa liên tiếp đuổi nhau, nước trắng cả một vùng trời. Gió bấc ù ù thổi kéo theo cái lạnh về buốt chân. Những lúc nhưthế, ít ai muốn ra khỏi nhà, trừ những người có việc phải đi.
Hôm đó, lớp chúng tôi bỏ mất một tiết học đầu giờ vì lý do đặc biệt, thầy giáo không đến được. Học xong tiết cuối, đồng hồ chỉ hơn hơn mười một giờ trưa. Nhà trường thông báo chiều nay sẽ học bù tiết buổi sáng. Về nhà rồi e trở lại không kịp. Bốn đứa chúng tôi thống nhất với nhau nhịn đói ở lại lớp. Trời lạnh mà nhịn đói thì thật là khổ nhưng không còn cách nào hơn. Mỗi đứa leo lên một cái bàn nằm nghỉ. Chúng tôi cố nhắm mắt nhưng không tài nào ngủ được vì vừa lạnh lại vừa đói. Lớp học làm bằng tre, nứa, bốn bề toang hoác, từng cơn gió bấc nối đuôi nhau thổi, lạnh buốt gáy, nhưng chúng tôi vẫn cố gắng chịu đựng.
Đúng một giờ rưỡi chiều, thầy giáo đến. Thầy xin lỗi cả lớp vì buổi sáng không đến được. Tiết học thêm chiều hôm đó cũng không bình thường, kéo dài thêm gần ba mươi phút.
Trời mưa và lạnh. Bốn chúng tôi mang bốn chiếc áo tơi, chạy lúp xúp về nhà. Lúc này cái bụng bắt đầu lên tiếng. Bên ngoài mưa rét buốt như kim châm. Bên trong cái bụng đói cồn cào, thật khó chịu. Về đến cầu Trìa, tức là đi được nửa đoạn đường, đứa nào, đứa nấy gần như muốn xỉu. Chúng tôi động viên nhau cố gắng. Trong đám chúng tôi có Loan là mệt nhất. Tôi biết sáng nay Loan chưa có gì lót bụng, bây giờ có vẻ nó đi không nổi. Loan bị tụt lại đằng sau.
Đến thôn Liêm Công Phường, chúng tôi dừng lại chờ Loan. Môi Loan nhợt nhạt, run lên cầm cập. Linh bảo chúng tôi ngồi nghỉ rồi chạy vào mấy nhà phía bên trái đường. Mùa đông mưa gió mịt mù, nhà ai cũng đóng cửa im ỉm. Linh hết gõ cửa nhà này đến nhà khác nhưng không xin được gì. Linh quay trở ra với hai tay không, cùng nỗi buồn vô hạn. Nhìn Loan như con gà rù, hai hàm răng đánh vào nhau, Linh bảo chúng tôi chờ tiếp, rồi chạy sang mấy nhà phía bên phải.
Khoảng mười lăm phút sau, Linh trở ra, trên tay cầm một gói khoai. Linh phát cho mỗi người chúng tôi một củ. Tất cả đúng ba củ. Tôi nhìn Linh hỏi:
- Phần của bạn ở đâu, bạn không có à?
- Mình ăn rồi, các bạn cứ tự nhiên mà ăn đi!
Chúng tôi mừng lắm. Lúc này có được củ khoai giống như người sắp chết đuối vớ được phao. Chúng tôi ăn nghiến ngấu, ăn luôn cả vỏ.
Chúng tôi tiếp tục đi. Càng về chiều, mưa càng nặng hạt, gió càng thổi mạnh. Mưa và gió đang thử thách đám học trò chúng tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi dừng lại để xoay chiếc áo tơi, tránh mưa và tránh gió. Đến ngã tư Hiền Lương bỗng bạn Nam kêu lên:
- Con Linh bị té! Chúng tôi chạy lại dìu Linh vào chỗ gốc phi lao gần đó. Tôi lấy lọ dầu Cù Là xoa cho Linh. Cả bọn chúng tôi đang loay hoay chưa biết làm gì tiếp theo thì may quá, một người đàn ông đi xe đạp, mang chiếc xà cột chạy ngang. Ông ta giống như cán bộ xã đi họp về. Chúng tôi gọi ông ta lại. Ông ta dừng xe, lấy tay sờ lên trán Linh và nhìn bạn ấy một lúc rồi nhảy lên xe, nói với theo:
- Chờ một chút!
Ông ta đạp xe như bay vào trong xóm. Khoảng vài phút sau trở ra, ông ta lấy ra một cốc trà đường nóng bón cho Linh. Vừa bón ông ta vừa lẩm nhẩm:" Con này bị đói xỉu, chắc chắn từ sáng đến giờ chưa ăn uống gì!” Khi Linh tỉnh lại, ông ta lấy trong xà cột ra mấy củ khoai, đưa cho Linh và cho chúng tôi. Xong ông ta nhảy lên xe, lẫn vào trong màn mưa dày đặc.
Linh tươi tỉnh như cũ. Chúng tôi lại tiếp tục đi về nhà. Lúc này tôi mới trách Linh:
- Thế mà lúc nãy bạn nói đã ăn rồi, bạn làm bọn mình một phen hú vía.
- Thì có sao đâu!- Linh đáp.
Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình, cười, nói một cách hồn nhiên, sự hồn nhiên của tuổi học trò, át cả mưa rét.

Lần đầu tiên chúng tôi mới nghe Linh nói dối.

                                                                   ĐT S


CƠ THỂ CON NGƯỜI,CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT HẾT

Con người ta có ba bộ phận, đầu, mình và tứ chi. Trong các bộ phận đó chứa da, thị và xương. Nhưng nếu mổ xẻ ra thì cơ thể của chúng ta có quá nhiều bộ phận, chúng rất quan trọng cho sự sống.

Trong những ngày đầu xuân này, chúng ta thữ tìm hiểu một và bộ phận trên cơ thể của mình nhé, cũng rất có ít cho chúng ta về sự hiểu biết.

1-Da

Người ta ai cũng phải có da, có hai loại da, da có lông và da không có long. Da có nhiệm vụ che đậy, bảo vệ cơ thể. Dađồng thời làcơ quancủahệ bài tiết, có nhiệm vụ bao bọc, che chở cơ thể khỏi sự tác động, sự ảnh hưởng không có lợi của môi trường bên ngoài đối với cơ thể. Ngoài ra, chức năng chính của da còn để điều hòa, cảm nhậnnhiệt độ, tổng hợpvitamin Bvàvitamin D. Da được coi là một trong những bộ phận quan trọng nhất của cơ thể. Diện tích bề mặt của da khoảng 2m2,,có thể coi như một cơ quan của con người, và nó chiếm tới 12-15% thể trọng của một người khỏe mạnh. Mỗi người có tới 300 triệu tế bào da.

Da người có cấu tạo gồm ba lớp: Lớp biểu bì, lớp bì và lớp mỡ dưới da

Tổng diện tích da của cơ thể con người trưởng thành,đo được khoảng 2m2,nghĩa là bằng một chiếc khăn bong tắm,với trọng lượng khoảng từ 2 đến 3kg. Da mặt có đến hàng ngàn tế bào biểu cảm. Để cảm nhận cái lạnh,cần 25.000 tế bào,nhận biết cái nóng, cần 30.000 tế bào, còn 50.000 tế bào cần cho hệ xúc giác.

2-Tay

Người ta tuyệt đại đa số đều có hai tay. Bàn tay con người dùng để lao động, học tập, sinh hoạt, vui chơi giải trí.Các ngón tay là nơi tập trung dày đặc các dây thần kinh, là nơi nhận nhiều phản hồi xúc giác nhất và là nơi định vị lớn nhất trên cơ thể người. Vì vậy, ý thức liên lạc của con người liên hệ mật thiết với hai bàn tay.

Người ta nghĩ rằng, bàn tay sẽ rất sạch sau khi rửa cẩn thận bằng xà phòng, song đám vi trùng có hại vẫn tồn tại.Một bàn tay được xem là sạch vẫn có tới 100.000 con vi trùng trên 1 cm2. Do vậy, mỗi cái bắt tay, có thể là sự tiếp xúc khoáng 16.000.000 con vi trùng giữa người này với người kia. Vì vậy cũng nên thận trọng khi bắt tay với những người đang bị bệnh nhất là những bệnh dễ lây.

3-Mũi

Người ta ai cũng có hai lỗ mũi. Mũi là một phần của hệ thống hô hấp: hít vàooxyvà thải racarbon dioxit. Mũi hoạt động như một tác nhân trung gian giữa cơ thể và thế giới bên ngoài. Mũi thường có lông bên trong với chức năng là để ngăn chặn các hạt không mong muốn xâm nhập vàophổi.

Là cơ quan khứu giác, giúp ta nhận biết mùi qua một lớp nhầy khứu giác để phân chất. Đó là một mô có bề mặt rộng bằng một con tem bình thường, khoảng 3cm2. Ở đó có 200 triệu tế bào khứu giác nhận biết mùi rồi chuyển về não bằng một xung điện.Khứu giác một số loài vật phát triển hơn của con ngừơi .

4-Mắt

Người ta ai cũng có hai mắt. Mắt người là một phần của não hình thành từ tuần thứ ba củaphôikỳ dưới dạng hai túi thị nguyên thủy, phát triển và lồi dần ra phía trước tạo thànhvõng mạc,thủy tinh thểvà các thành phần hoàn chỉnh khác. Con người có khả năng dùng mắt để liên hệ, trao đổi thông tin với nhau thay lời nói. Mắt người có thể phân biệt 10 triệu màu khác nhau và nhiều khả năng là có thể nhận biết một photon đơn lẻ. Mắt nặng không hơn 8g, có đường khính 2,5 cm.Mắt được cấu tạo để có thể nhìn rõ mọi vật ở khoảng cách xa 80 mét.Vật ở xa quá mắt chỉ phát hiện nguồn sáng, có thể đến 27 km trong đêm. Để nhìn thật rõ vật như để đọc sách, báo chẳng hạn, khoảng cách thay đổi theo tuổi,thiếu niên là 15 cm, người lớn là 40 cm. Điều này chứng tỏ càng sống lâu, thủy tinh thể càng lão hóa. Con mắt cần phải luôn được chăm sóc, bảo vệ.

5-Tóc

Tóclà cấu trúcsừnghình sợi dài, dẫn xuất củabiểu bìda, bao phủ dađầucủangười. Tóc có thành phần chủ yếu là chất sừng, giàubiotin,kẽm,lưu huỳnhnitơ. Màu và dạng của tóc chính là một dấu hiệunhân chủng họcquan trọng.

Tóc có thể mang màu đen, nâu, vàng, hung, bạch kim, đỏ... có thể thẳng, xoăn, uốn sóng..tùy theo giống người da trắng, da vàng, da đỏ, da đen... Màu sắc tóc dosắc tốcó trong tóc quyết định và mang tính chấtdi truyền. Với thời gian, lượng sắc tố đó sẽ giảm đi và phân số các hát sắc tố cũng có sự biến đổi. Đây chính là lý do tóc bị bạc. Cũng có trường hợp tóc bị mất sắc số, như những người bị bệnhbạch tạng. Tóc mọc dài do cáctế bàonang tóc sinh sản thường xuyên. Những sợi tóc chỉ tồn tại một thời gian rồi rụng, vớinam giớitrung bình 2 năm, ởnữ giớilâu hơn, khoảng 4 đến 5 năm. Ở mỗi người, trung bình khoảng 50 đến 100 sợi tóc rụng mỗi ngày.Vòng đời tóc,có ba giai đoạn chính:

-Giai đoạn tăng trưởng (anagen): tóc được hình thành và nhú ra khỏi đầu thoát của tuyến dầu quanh nang tóc. Thân tóc xuất hiện và hoàn thiện quá trình sừng hóa phía ngoài. Giai đoạn tăng trưởng kéo dài 2-4 năm ở đàn ông và 3-7 năm ở phụ nữ. Tóc mọc 0,3-0,4mm một ngày và tối đa là 1cm trong một tháng.

-Giai đoạn dừng tăng trưởng (catagen): trong suốt giai đoạn này, tóc trải qua hàng loạt những thay đổi. Tất cả mọi hoạt động tăng trưởng trong tế bào bầu tóc ngừng lại và co về phía trước. Sự tổng hợp melanin cũng dừng lại. Phần sâu nhất của nang tóc sẽ thoái hóa trong từ 2 đến 3 tuần.

-Giai đoạn thoái hóa (telogen): kéo dài 2-4 tháng. Nang tóc giờ đây chỉ còn là một bộ phận không hoạt động. Bộ phận sinh trưởng nằm sâu dưới lớp da,chân tóc tách khỏi nang bây giờ đã co lại, bắt đầu rụng đi và nhường chỗ cho giai đoạn tăng trưởng của sợi tóc mới, vòng đời mới của tóc bắt đầu.

Trung bình mỗi ngày tóc mọc ra chừng 0,25 mm.Mỗi năm tóc phát triển khỏang 12 cm.Tóc đàn ông có tuổi thọ 3 năm.Tóc phụ nữ có tuổi thọ đến 15 năm. Sau thời gian trên tóc sẽ thay mới.Tính trung bình trên đầu người, có từ 1đến 3 triệu sợi tóc đươc sinh ra trong một đời người

6-Lông

Người ta ai cũng có lông, có người lông ít và cũng có người lông nhiều.

Lông có nhiệm vụ bảo vệ da chống lạnh,chống nóng, chống mưa, nắng đồng thời bảo vệ xúc giác của cơ thể. Mỗi người có từ 200.000 đến 1.000.000 sợi lông. Lông mi bảo vệ mắt,chúng rụng đi, mọc lại khoảng 100 ngày, một lần. Đàn ông có 83.000 lông mi rung đi, mọc lại. Đàn bà có 93.000 lông mi rụng đi, mọc lại, bởi có lẽ do phụ nữ sống lâu hơn.

7-Dạ dày

Dạ dày thì ai cũng có. Dạ dày là nơi phình to nhất của hệ thống đường tiêu hóa trong cơ thể con người, nó nối thực quản với tá tràng, phần đầu của ruột non. Hình dáng dạ dày giống như một cái túi hình chữ J. Dung tích vào khoảng 3-4lít

Dạ dày(còn gọi làbao tử) là một bộ phận tronghệ tiêu hóa.Ở nhiều động vật, và ởngười, nó thực hiện hai chức năng chính trong tiêu hoá là:

1.Nghiền cơ học thức ăn, thấmdịch vị

2.Phân huỷ thức ăn nhờ hệenzymetiêu hóa trong dịch vị

Để thực hiện chức năng thứ nhất thì dạ dày cấu tạo từcơ trơn, sắp xếp các bó cơ theo nhiều hướng để tăng hiệu quả co bóp. Dành cho chức năng thứ hai, dạ dày được bao phủ bởi lớpniêm mạcdạ dày và duy trìđộ pHphù hợp với hoạt động của những enzyme tiêu hóa.

Thông thường dạ dày chứa đươc 3-4 lít. Tuy nhiên dung tích này có thể thay đổi theo điều kiện ăn uống của chúng ta. Sức chứa tối đa của dạ dày là 8 lít. Do đó có nhiều người uống bia thoải mái. Thức ăn lưu lại trong dạ dày thay đổi thời gian tùy vào loại thức ăn. Mì, bột, cháo lưu giữ khoảng từ 2 đến 3 giờ. Các chất mỡ lưu giữ từ 7 đến 8 giờ. Để tiêu hóa thức ăn, mỗi ngày dạ dày phải tiết ra 1,5 lít dịch vị.

8-Lưỡi

Lưỡilà cơ quan vị giác nằm trong khoang miệng củađộng vật có xương sống. Ởđộng vật có vú, lưỡi là khối cơ vân chắc, phủ ngoài bằng lớp biểu bì phân lớp, phía dưới là lớp mô liên kết. Mặt trên lưỡi có nhiều nhú cảm giác (chồi cảm giác), nhú chứa các cơ quan hoá học nhạy cảm với chất hoá học có trong dung dịch. Trên lưỡi chia thành một số vùng tương ứng với khả năng cảm giác, vị giác khác nhau.

Bản thân lưỡi có các sợi cơ vừa chạy theo chiều dọc vừa theo chiều ngang và các cơ này có khả năng tạo ra chuyển động nào đó, nhưng các hoạt động của lưỡi được coi là rất linh hoạt do sự co bóp của nhiều cơ có vị trí trong cổ và các bên hàm. Ví dụ: Cơ trâm thiệt trong cổ, có nhiệm vụ đưa lưỡi lên trên và về phía sau; hay cơ móng lưỡi, cũng nằm ở cổ, đưa lưỡi hạ xuống và vào lại vị trí nghỉ bình thường.

Trong khi đang ăn, một trong những công việc chính của lưỡi là đưa thức ăn đến răng để nhai và nặn thức ăn đã mềm thành viên tròn sẵn sàng để nuốt. Các động tác này được thực hiện bằng hàng loạt chuyển động cong lên cong xuống. Khi nhiệm vụ vừa hoàn thành (hoặc ngay khi người ăn nuốt thức ăn) lưỡi đẩy viên thức ăn vào hầu ở phía sau miệng, từ đó thức ăn đi vào thực quản và vào bao tử.

Cái lưỡi giúp ta nhận biết vị ngon của thức ăn. Lưỡi nặng 50 g, có đến 17 cơ hoạt động. Khi ta ăn,nó tham gia 80 lần trong 1phút để nhai thức ăn. Còn khi ta nếm thứ gì đó, có đến 4000 gai vị giác( mỗi gai có 50 sợi dây thần kinh) truyền dẫn những thông số về bộ não,cho ta biết mùi vị gì của thức ăn.

9-Móng tay

Móng tay, chân, mọc trực tiếp từ biểu bì (epidermis) và được cấu tạo bởi nhiều lớp chất đạm cứng như sừng gọi là keratin. Keratin cũng là thành phần căn bản của tóc và lớp ngoài cùng của da.

Mỗi ngày chúng dài ra chừng 0,15mn, khoảng 1 tháng sau, móng dài ra đến 4,5mn. Móng đươc thay mới hoàn toàn sau 3 tháng. Như vậy mỗi năm,móng thay mới đến 65 lần.Một đời người bình quân,móng thay đổi 5000 lần.Không phải móng phát triển đều như nhau.Móng ngón tay dài phát triển nhanh hơn ngón ngắn.Ngón giữa phát triển nhanh hơn ngón cái.Ban ngày móng mọc nhanh hơn ban đêm. Mùa nóng móng phát triển nhanh hơn mùa lạnh.Móng ngón tay dài mọc nhanh gấp rưởi móng ngón chân.

Móng tay có nhiều sọc trắng nhạt có thể là dấu hiệu của những bệnh nghiêm trọng như: bệnh thiếu máu; bệnh suy tim sung huyết, bệnh gan, suy dinh dưỡng.

Nếu móng tay chủ yếu là màu trắng có vành xung quanh màu tối, điều này có thể báo hiệu các bệnh lý về gan như viêm gan.

Móng tay màu vàng là do bị nhiễm nấm. Các trường hợp nhiễm trùng nặng hơn, các móng tay có thể bị co lại và dày lên. Trong trường hợp hiếm gặp, móng tay màu vàng có thể chỉ ra một tình trạng bệnh nghiêm trọng hơn như bệnh tuyến giáp nặng, bệnh phổi, bệnh tiểu đường, hoặc bệnh vẩy nến.

Móng tay có màu xanh tím là do thiếu oxy gây ra. Nhân tố cục bộ là do trở ngại máu tuần hoàn, nhân tố toàn thân là do các căn bệnh bẩm sinh như tim, bệnh phổi mãn tính, suy tim…

Nếu bề mặt móng tay bị gợn sóng, điều này có thể là một dấu hiệu sớm của bệnh vẩy nến hay viêm khớp.

Móng tay bị nứt gãy: Móng tay khô, giòn, thường xuyên bị nứt là những dấu hiệu của bệnh về tuyến giáp. Nếu vết nứt kết hợp với màu vàng có thể móng tay bạn bị nhiễm nấm.

Móng tay có dòng kẻ tối màu rất lạ: Nguyên nhân xuất hiện chúng là do cơ thể bị rối loạn hormone do sử dụng quá nhiều thuốc kháng sinh... Nguy hiểm hơn, đây còn là dấu hiệu của bệnh ung thư da.

Móng tay nhợt và tái: Đây đích thị là dấu hiệu của lão hóa được biểu hiện qua các tế bào sừng. Bên cạnh đó, cũng có nhiều trường hợp là do cơ thể chúng ta đang bị thiếu sắt dẫn đến thiếu máu và suy tim.

Sưng phồng da bao quanh móng: Nó có thể là kết quả của bệnh lupus (biểu hiện bằng các sợi mỏng, sừng hoá và teo đét ở mặt và các vùng da hở), hoặc là sự rối loạn các liên kết mô tế bào.

Phát hiện móng khô sần: Khi thấy móng không còn mịn, bóng mà lại có biểu hiện khô, sần sùi và bong tróc, tình trạng này báo động rằng móng của bạn có thể bị nấm, và cũng có thể tuyến giáp của bạn có vấn đề.

Móng tay dùi trống: Móng tay tròn vo giống như mặt sau của một chiếc muỗng có nhiều nguyên nhân như viêm nhiễm mãn tính, nhất là apxe, ung thư phổi, bệnh phổi mãn tính, bệnh lao lâu ngày không khỏi, hay bệnh tim bẩm sinh.

Chân móng tay của bạn có một hình bán nguyệt? Đó là hiện tượng bình thường. Nhưng khi tuyến yên của bạn có vấn đề hình bán nguyệt này sẽ biến mất. Còn chân móng hoàn toàn trắng là do biến chứng ở gan, thường gặp ở viêm gan.

Móng xuất hiện hạt gạo: Những hạt gạo trắng trắng bé xíu xuất hiện trên móng đó là dấu hiệu cho bạn biết rằng chiếc móng đó đang bị tổn thương. Hoặc còn có một nguyên nhân khác nữa là rất có thể cơ thể của bạn đang bị thiếu kẽm.

Móng cụp xuống tức là bạn đang ốm nghiêm trọng có thể do lượng oxy trong máu thấp và có thể do bạn bị bệnh phổi. Mong cụp xuống cũng liên quan với bệnh viêm ruột, bệnh tim mạch, bệnh gan và AIDS

Khi quan sát, bạn thấy ở giữa móng bị lõm, 4 chung quanh vênh lên đến nỗi bạn có thể đổ một giọt nước vào giữa móng tay mà vẫn giữ được. Vấn đề này có thể liên quan đến tình trạng thiếu máu do thiếu sắt, suy giáp hoặc bệnh gan.

Móng bị đen: Móng tay hoặc móng chân biến thành màu đen hoặc màu nâu, có thể là do bị ung thư hắc tố (melanoma). Bệnh càng nghiêm trọng móng càng có màu nâu.

Khi móng tay trở nên lỏng và dễ lung lay, đó có thể là do bị thương hay viêm, cũng có thể là do các bệnh về tuyến giáp, bệnh vẩy nến, tuần hoàn kém hoặc do dị ứng phản ứng với thuốc.

Vệt đỏ hoặc nâu nằm dưới móng tay: Đây thường là những dòng máu do mạch máu bị hư hỏng nhỏ và được gọi là mảng xuất huyết. Điều này không có gì phải lo lắng, nhưng nếu nhiều móng tay bị ảnh hưởng, nó có thể là dấu hiệu của một căn bệnh tiềm ẩn.

Do vậy, chăm sóc cho móng tay là một việc cần làm thường xuyên, giữ cho móng tay luôn sạch sẽ. Để giúp cho móng tay của bạn phát triển bình thường, cần phải có chế độ ăn uống đầy đủ dưỡng chất, học tập, làm việc, vui chơi giải trí khoa học điều độ.

                                                                                  Hà Lực ĐH

TRƯNG CÂY TÀI LỘC, PHÚ QUÝ ĐẦY GIA—Chu Mạnh Cường

Dân gian ta vốn yêu cây cỏ, quanh năm nhà nào cũng trồng cây, để lấy màu xanh, hương thơm, hoa trái và đặc biệt vào xuân Tết thường trưng rất nhiều cây, gửi gắm vào đó ước mơ về một năm mới tràn đầy sức sống, thành tựu. Bên cạnh cây thật, cũng bày cây tưởng tượng, mà nổi bật nhất là cây kim tiền, cây châu ngọc được làm từ những đồng xu, vàng bạc, đá quý… xem đây là những kỳ mộc, dị thảo có tính chất phong thủy, mang lại tài lộc, phú quý, may mắn cho gia đình.

Sở dĩ mọi người làm như vậy vì trong văn hóa từ lâu đã có chuyện cây tài lộc: cây tiền, cây ngọc là những cây thần có phép màu giúp con người giàu sang, sung sướng, trẻ khoẻ, hạnh phúc. Về cây tiền, tiêu biểu có chuyện về một bác nông dân nghèo song cần cù lao động. Bác được thần cho một hạt giống, bảo hãy trồng và tưới tắm cho nó hàng ngày bằng chính những giọt mồ hôi, máu mủ của mình. Mặc dù cực nhọc, nhưng bác vẫn kiên trì chăm cây và một ngày kia, từ trên cành bỗng nảy ra vô số những bông hoa bằng tiền xu và quả bằng những thỏi vàng. Nhờ thế, bác trở nên giàu có, và cái cây được xem là cây tiền, cội nguồn của vượng khí, tài lộc. Cây ngọc lại là những cây vô cùng hiếm gặp, chỉ thấy nơi thiên giới. Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ thì ở cõi Tây phương cực lạc của Đức Phật A Di Đà, có những cây cối hoa lá toàn bằng châu ngọc, vàng, bạc, mã não, ruby… Mỗi người khi vãn sinh về Tây phương sẽ được Đức Phật đón trên những đài sen và những cơn mưa hoa lấp lánh đầy kim cương. Quả là một cảnh tượng vô cùng tươi đẹp, chỉ trong mơ ta mới tới được.

Vì lẽ này, vào mỗi độ xuân Tết, người dân lại có ý tưởng trang hoàng nhà cửa bằng tranh, tượng, phù điêu cây tài lộc. Đặc biệt nhiều nơi còn làm được những chậu cây tiền, cây ngọc tuyệt đẹp. Mọi người thường dựng chúng từ những nhánh tùng, tre và nhiều cây cỏ có sức sống vươn lên trong mưa nắng mà cắm trong bình gạo đựng đầy thóc lúa, bên trên rắc hạt dưa, hạt bí, mứt, kẹo thơm ngọt có ý mang lại cuộc sống viên mãn, đầy đủ. Trên cành thường đính tiền xu hoặc vàng bạc, đá quý. Cũng có khi đúc nặn cây từ nhựa thông, kim loại và nhiều chất liệu khác, nhờ tạo tác thủ công tăng vẻ hoành tráng, hấp dẫn. Cùng với cây, bên dưới những tán lá châu ngọc cũng thấy hình ảnh của những đôi hạc, hươu nai, long phụng, cá chép, thiềm thừ… là biểu tượng của cuộc sống thanh cao, quyền quý. Nói chung, mỗi cây đều tuân theo triết lý âm dương. Có cả ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Trong đó đồng tiền là kim có uy lực lớn nhất thu hút tài bảo. Nó còn có hình tròn và lỗ vuông biểu thị cho sự đa dạng, thái hòa. Tuy thường bằng đồng và bạc song mỗi thỏi tiền đều chỉ vàng, thước đo cao nhất về sự thịnh vượng. Thành thử cây tiền luôn được hiểu là câyvàng. Với cây ngọc làm bằng nhiều loại đá khác nhau, gồm thạch anh, san hô, pha lê cũng được xem là cây kim cương. Mọi nhà thường đặt chúng gần bên cửa sổ, để khi có gió lan tỏa vượng khí. Cũng có khi đặt giữa mặt bàn làm việc cho năng lượng từ cây tác động tới người, giúp gia chủ khỏe mạnh, sáng suốt; công việc hanh thông, thuận lợi. Mỗi cây thường chỉ cao từ 30 đến 60 centimét nhưng cũng có lúc vượt quá đầu người, như thể phát huy lớn nhất quyền năng tạo ra tiền của, vàng ngọc.

Cùng vật phẩm phong thủy, dân gian cũng đặt tên cho nhiều cây hoa tươi tốt là cây tiền, vàng, ngọc mà trưng bày trong nhà đón xuân. Do là cây thật nên chúng mang lại một cảnh quan hết sức sống động, chỗ này xanh mướt, chỗ kia đỏ thắm, vàng rực cùng vô vàn hoa trái thơm tho, chỉ một thoáng đã khiến tâm trạng vui vẻ- phấn chấn, lôi cuốn kẻ ra người vào. Để tạo đà cho sự phát triển, người ta thường đặt cây ở những vị trí đắc địa, như hướng Đông hoặc Đông Nam ứng với hành Mộc (gỗ) giúp cây lớn nhanh cho người tài lộc, hoặc hướng Bắc và Đông Bắc là hành Thủy (nước) và Thổ (đất) bồi bổ cho cây khỏe khoắn- rắn rỏi, gia đình nhờ thế cũng rủng rỉnh tiền vàng, có kinh tế vững mạnh.

Ngoài mai, đào, hải đường, cam quất nổi bật nhất trong những cây cảnh chiêu tài- nạp bảo có thể nói là cây kim ngân. Nó được yêu thích bởi những chiếc lá như bàn tay xanh hứng tiền. Lá kim ngân thường có năm thùy, cá biệt là tám, chin thùy – là các số đẹp cho sự đỗ đạt, thịnh vượng. Với lá năm thùy, người dân đã tin rằng nó sẽ hội tụ mọi yếu tố thuộc ngũ hành, cho cuộc sống đủ đầy, sung túc và nếu là tám thùy thì dư thừa và chín thì không đếm xuể. Nhằm kích thích tài lộc, ngoài bày trong nhà, nhiều người còn quấn chỉ đỏ quanh cây, nhờ sắc đỏ khuếch trương vượng khí, thu hút điều lành về với gia đình.

Một cây nữa cũng xuất hiện nhiều trong ngày xuân, nhờ lá đẹp là cây ngọc ngân. Đây là một loại cây sống đời, lúc nào cũng xanh tươi nên có tên vạn niên thanh. Trong phong thủy, nó được gọi là ngọc ngân với ý nghĩa mang lại ngọc ngà, tiền bạc vì hoa văn rất bắt mắt. Trên một chiếc lá dong dỏng, thuôn tròn và to như cái quạt có hàng ngàn đốm trắng lẫn xanh xen kẽ như tảng ngọc, và trong nhiều trường hợp hóa trắng thành bạc. Cây cũng có nhiều đốt vươn lên như ngọn tre thanh tao.

Cũng thuộc chi Vạn niên thanh, cây phú quý lại được chuộng vì lá xanh, gân hồng và mang đến cả sự giàu có lẫn may mắn. Màu xanh ở lá sẽ cho gia chủ của cải, bổng lộc- do xanh tượng trưng kim tiền còn sọc đỏ hồng giữa lá thể hiện sức mạnh, lạc quan vượt qua mọi trở ngại, chiến thắng. Vẫn chi này nhưng riềm xanh, đốm đỏ là cây vạn lộc. Trên lá chứa nhiều đốm đỏ, mảng hồng pha lẫn xanh dương ấn tượng. Lúc đầu lá non có màu xanh nhạt, khi lớn thì chuyển sang đỏ. Vì thế, nó biểu thị cho sự phát đạt nhanh chóng, với mỗi đốm đỏ là một đốm lộc. Không chỉ ban tặng phú quý, những chiếc lá đỏ còn xua đuổi tà ma và như một ngọn lửa sưởi ấm nhữngngày xuân se lạnh.

Cùng với vạn lộc, kim phát tài luôn được chọn làm cây cảnh ưu tiên số một trong nhà nhờ có bụi lá sum suê. Đây là một cây bụi, không thân, mọi mầm, lá, hoa, quả đều nảy lên từ gốcvà mỗi lúc một dày. Lá cây rất đẹp, có dạng lông chim, mỗi lá chứa khoảng tám cặp lá con mọc đối, ban ngày ngửa lên đón nắng, ban tối xếp ngủ thiêm thiếp. Cây có hoa khá nhỏ và nở kín đáo song có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tạo ra tiền của vì nó mang hình sinh thực khí, lúc non màu trắng, lúc già ngả nâu, chứa nhiều hạt phấn tỏa lan mầm sống. Dân gian rất thích kim phát tài vì mỗi lá con như một đồng xu và bay lên tựa cánh chim.

Ngọc bích cũng là một cây bụi cho cuộc sống giàu sang nhờ lá xanh tròn đầy như viên ngọc và sống dai dẳng. Nó thực ra là một loài hoa đá có lá xếp đẹp mắt như hoa. Ngoài ra, trên một bụi cây còn chứa tới cả trăm cái lá xanh bóng, múp míp, khi ngắt ra cắm xuống đất đều mọc thành cây. Hoa ngọc bích thường nở vào xuân, màu trắng hồng, hình sao mang lại tài lộc, hy vọng. Dân gian thường trồng ngọc bích quanh nhà và bên lối vào để tăng dòng chảy của tiền.

Mang tới vận hội, thành công từ hoa quen thuộc nhất, là lan ý với những bông hoa giống một nén bạc hoặc cái thìa màu trắng. Hoa lan ý có thể to đến 20 centimét vươn cao trên một cuống dài. Điều lạ là nó chỉ có một cánh, chụm lại dạng mo cau, nên cho cảm giác trên. So với các loại cây, lan ý ra hoa quanh năm, hơn thế chỉ cần mọc vài lá thì cây non đã có hoa, cứ thêm vài lá sẽ có vài hoa. Điều này thể hiện cho sự phú quý không ngừng. Trong tiếng Anh, cây còn có tên là huệ hòa bình, có lẽ nhờ hòa bình mà dễ nảy nở, sinh trưởng. Mọi người thường bày lan ý trong nhà vì cây ít cần nắng và còn có thể thanh lọc không khí. Tương tự lan ý là hồng môn song hoa có hình tim, màu hồng đến đỏ thắm, dài tới 30 centimét. Phần mo cau ng mở hơn như thể đuôi công. Với kiểu cách này, người ta xem hồng môn là hoa của niềm vui, tình yêu, may mắn. Mỗi khi khai trương, mừng thọ, cưới hỏi, nhất là lễ Tết luôn thấy hồng môn. Thế nhưng, cây hoa tài lộc hấp dẫn nhất bởi thế hùng vĩ và hoa chi chít là cây lộc vừng. Vào xuân, cây đâm chồi rất sai, lá xanh mơn mởn vì thế có tên là lộc.

Hoa trái cũng dày. Cứ mỗi nách lá ở đầu cành là một dây hoa dài cả mét đính hang nghìn bông nhỏ màu hồng cho thêm cái tên vừng với ý nghĩa nhiều như hạt vừng.

Trong văn hóa, lộc vừng thuộc bộ tam đa, những cây lớn, thường thấy là đa, si, lộc mang đến phúc lộc thọ. Chữ đa ở đây chỉ sự phong phú về cành lá, chồi non, hoa, quả. Và lộc vừng có lẽ là cây nhiều hoa, quả, hạt nhất. Những tràng hoa của nó chứa vô số nụ li ti khi chín muồi nở bung như những chùm sợi tua rua đỏ, chốc chốc trút xuống như mưa. Vào xuân, có thể chưa thấy hoa lộc vừng, song thấy rất nhiều chồi non lộc biếc, tạo nên một màu xanh dịu mát trước căn nhà.

Thiết mộc lan là một cây tài lộc vừa cho lá vừa cho hoa đẹp. Hoa của nó cũng có dạng dây song to như cái phất trần và thơm nức tựa ngọc lan. Trong phong thủy, nó được gọi là cây phát tài bởi thân thẳng, nhiều đốt, lá dài, láng bóng, màu xanh hoặc có sọc vàng lôi cuốn. Đặc biệt hoa thường nở cuối đông đầu xuân, khi trời lạnh, đất đai khô cằn và nhiều loài cây không đơm hoa nổi. Mỗi bông đều có hai màu: nâu ở ngoài và trắng ở trong rất tinh tế, cùng với hương thơm nồng nàn cho không khí thật là ấm áp.

Giống thiết mộc lan nhưng trúc phú quý thường được kết thành nhiều hình dạng, như tòa tháp, tam giác, vòng tròn dùng tầng bậc để thể hiện sự đỗ đạt, thăng tiến. Nó không phải là trúc song vẫn được coi là trúc do có thân nhỏ, nhiều lóng, quanh năm xanh tốt. Cây còn mọc được trong nước nên dễ dàng phát huy sức mạnh ban tặng tài lộc, thịnh vượng, phú quý cho cuộc sống.

                                                                                                           CMC

Mẹo vặt cho đồng hương

BÍ QUYẾT KHỬ SẠCH NHANH MÙI LÒNG HEO

Cách làm sạch dạ dày, bao tử, tràng heo

Đểlàm sạch nội tạng heo chủ yếu được áp dụng bằng cách xát, ngâm nội tạng vào muối và giấm ăn, hoặcdùng nước vo gạo để rửa thêm. Bên cạnh đó, để làm sạch sạch dạ dày, bao tử, tràng heo bạn cũng có thể sử dụng bột mì và muối chà xát vào, sau đó rửa sạch lại với nhiều nước sạch.

Khử mùi hôi cho dạ dày

-Lấy hết màng mỡ bám bên ngoài dạ dày rồi dùng bột mì chà xát lên dạ dày trà xát mạnh rồi rửa lại với muối để khửa sạch mùi tanh, bạn có thể vắt thêm chanhđể chà xát lại thật sạch và tiếp tục xả lại với thật nhiều nước sạch.

-Hoăc cũng có thể lộn trái dạ dày, bao tử sau đó lấy hết phần mỡ ra. Làm nóng chả, sau đó cho dạ dày vào chảo đảo nhanh qua rồi cạo sạch nhớt. Cạo từ 2-3 lần sau đó cho một chút nước mắm vào đà đảo thêm 2 phút. Chà tiếp với muối và chanh để hết những phần nhớt còn sót lại đểdạ dày lợn được làm sạch và khử mùi rồi.

-Một cách khác để làm sạch và khử mùi dạ dày, đó là khác là dùng nướcdưa chua để rửa sạch dạ dày rồi sử dụng muối bóp sạch nhiều lần và xả lại với thật nhiều nướcsach.

-Đun một lượng nước đủ để ngập dạ dày, cho thêm ít phèn chua. Khi nước sôi thả dạ dày vào nồi đun đến khi sôi, chín vừa tầm thì vớt ra ngâm vào bát nước đá có vài giọt nước cốt chanh. Cách luộc này sẽ giúp món dạ dày trắng và giòn.

Cáchlàm sạch ruột lợn

Để làm sạch phần ruột non, ruột già của lợn thì bạncho thêm vào nước một ít dấm ăn và một thìa phèn chua, bóp vài lần rồi rửa kỹ bằng nước sạch, ruột sẽ sạch và không có mùi. Nên mua loại lòng non nhỏ, tròn đều, có màu hồng hào, đây là loại lòng ngon.

Hoặc bạn có thểlộn trái lòng, lấy hết màng mỡ,vuốt cho sạch hết chất bẩn và chà xát lại bằng bột mì,sau đó cho một nắm bột mì trộn chút muối vào bóp kỹ, rửa lại bằng nước. Cuối cùng dùng chanh chà xát để những gì còn sót lại sẽ ra hết, rồi xả nước thật mạnh. Với cách này lòng lợnvừa sạch và trắng.

Khi luộc lòng, để món lòng của bạn không còn mùi hôi, bạn hãy cắt 01 củ hành nướng đập giập cho vào nồi nước luộc cùng lòng.Khi luộc lòng chín bạn vớt ra ngâm vào bát nước dấm loãng để ruột để được trắng và giòn.

Để cho lòng được trắng hơn bạn nên cho lòng lợn đã luộc chín ngâm vào 1 tô nước xôi để nguội có pha giấm hoặc phèn.

Làm sạch và khử mùi gan heo

Gan heo thường khá khó khử mùi vì gan là nơi giải độc nên có nhiều mùi hôi khó chịu. Để làm sạch và khử mùigan heo, bạn nên rửa sạch phần máu còn sót lại ở gan, bỏ màng ngoài sau đó ngâm vào sữa bò. Hoặc, khi rửa gan heo bạn nên cho một chút rượu trắng hoặc rượu vang đỏ để khử tanh gan. Ngoài ra gan cũng giống như các loại nội tạng heo khác bạn nên ướp qua giấm để khử mùi hiệu quả nhất.

Khi mua gan heo,bạn nên tránh những miếng gan có biểu hiện lốm đốm đỏ, trắng, hay cứngvì có thể là nguồn heo không đảm bảo, bị dịch bệnh hoặc do ăn thức ăn công nghiệp.

                                                                                   Sưu tầm

CÁCH PHA TRÀ NGÀY TẾT

Ngày Tết tất nhiên phải có trà, bánh, rượu, mứt .. rồi. Uống trà ngày Tết là nét văn hóa truyền thống, nhưng phải là trà ngon. Trước hết, phải chọn loại trà đặc biêt, tức là loại trà có tiếng như trà Thái Nguyên,trà San Tuyết…trà phải mới, thơm ngon, hậu ngọt.

Nước pha trà phải là nước sạch.Đồng thời chuẩn bị ấm pha trà, dụng cu pha trà. Những thứ này cũng rất quan trong làm nên buổi thưởng thức trà có chất lượng,mang lại niềm vui và sự may mắn trong những ngày đầu năm.

Sau khi có những thứ trên, ta tiến hành các bước sau:

-Tráng ấm chén:Rót đầy ấm nước sôi, sau đó chia nước ra đều các chén. Đảm bảo nước đầy tràn các chén là tốt nhất. Công đoạn này giúp khử trùng ấm chén đồng thời làm nóng ấm chén để đảm bảo pha trà và thưởng thức trà được ngon.

-Tráng trà:Cho một lượng khoảng 12g trà ngon cho 4 người thưởng thức) vào ấm. Sau đó rót nước sôi (lưu ý với trà Thái Nguyên búp non chỉ nên dùng nước sôi ở 85 – 90 độ C) xối trà trong ấm thật nhanh (dâng cao phích rồi xối nước xuống ấm đảm bảo xâm xấp trà là được) rồi chắt bỏ ngay. Công đoạn này giúp loại bỏ phấn trà và các tạp chất trong khi sao trà đồng thời làm cho cánh trà trong ấm nở đều và đảm bảo nhiệt độ của ấm trà.

-Pha trà:Sau khi tráng trà, bạn nhanh chóng rót một lượng nước sôi vừa đủ để đảm bao sau khi chia cho 4 chén trà (pha cho 4 người) mà vẫn còn 1 lượng nước cốt sấp sấp trà là được. Đậy nắp ấm, tiếp tục xối nước sôi lên nắp ấm để cho ấm giữ được nhiệt ổn định cho nước trong ấm.

-Rót trà:Sau khi pha, bạn đợi khoảng 2 – 3 phút để trà đủ chín rồi rót trà ra chén. Trước khi rót, bạn sắp xếp các chén sát vào nhau thành một vòng khép kìn. Khi rót, lượt đầu bạn chia mỗi chén 1 nửa sau đó vòng lại 2 – 3 vòng cho đến khi các chén trà đều nhau. Lưu ý chỉ rót đến ¾ chén chứ không nên rót đầy quá.

-Dâng trà:Cuối cùng, bạn dâng những chén trà vừa rót để mời bề trên hoặc bằng hữu theo thứ tự gia thất (đối với gia đình) hoặc thứ tự tuổi tác (đối với người ngoài dòng họ) theo nguyên tắc từ bề trên xuống hoặc từ người cao tuổi nhất xuống. Dâng trà phải đảm bảo lễ nghi dâng bằng hai tay và nâng chén theo cung cách tam long giá ngọc (dùng 3 ngón tay nâng chén trà). Sau khi dâng trà bạn lưu ý bổ xung nước sôi vào ấm để tiếp tục rót trà những lần tiếp theo.

Uống trà là một thú vui tao nhã có từ bao đời nay, làm sãng khoái,lâng lâng, giúp ngày làm viêc có hiệu quả. Bạn bè uống trà,đàm đạo, gắn kết tình than,đúng là tuyệt vời, chúc nhau may mắn trong những ngày xuân.

                                                                                                       Trà đạo


HỘI THI CHẺ ĐÁ NGÀY XUÂN ở Gio Hòa, Gio Linh, Quảng Trị

                                                                       HỒ THANH THOAN

Cách TP Đông Hà 8km dọc Quốc lộ 1 về hướng Bắc, sau đó ngược trục đường 74 đi lên phía Tây khoảng 4km, một vùng dân cư đông đúc mới hình thành sau ngày đât nước được giải phóng. Đó là xã Gio Hòa, một xã thuộc vùng kinh tế mới của huyện Gio Linh, ở đây là miền trung du, gò đồi đất đỏ bazan nên rất thuận lợi cho việc phát triển các loại cây công nghiệp như hồ tiêu, cao su, cây ăn quả. Bên cạnh đó người dân còn chăn nuôi lợn, nuôi cá nước ngọt, bồ câu, nhím, chồn hương… Ngoài các mô hình đó, dân trong xã còn tập trung lựa chọn phát triển chương trình cải tạo vườn tạp thành những vùng trồng cây tập trung mang lại thu nhập bình quân khá trên vùng đất này.

Còn một công việc khác mà lúc thì người dân làm quanh năm, cũng có thể là khi nông nhàn, đó là nghề chẻ đá, người theo nghề chẻ đá chủ yếu là lứa tuổi trung niên. Nghề này đòi hỏi phải khéo léo, dẻo dai, tính cẩn thận và kiên nhẫn. Sau khi thu hoạch xong mùa màng là lại đưa ve, đưa đục, quai búa ra các bãi đá làm thuê để kiếm tiền. Cứ mỗi ngày làm việc cật lực thì có thể chẻ được 50 viên, còn lại trung bình chỉ được chừng 30 viên. Chẻ được viên đá được hưởng khoảng 6.000 đồng tiền công. Kể ra cũng nhờ nghề chẻ đá mà có tiền trang trải cuộc sống dù không nhiều nhặn gì, ở nông thôn mà có việc làm thường xuyên như vậy là cũng tạm ổn với lại ở đây ruộng vườn ít nên ngoài nghề này cũng chẳng có nhiều công việc khác để lựa chọn. Xã Gio Hòa hiện có 440 hộ với hơn 2.000 khẩu thì đã có 30% số dân địa phương sống bằng nghề chẻ đá mồ côi. Mỗi năm nghề này chỉ làm được trong khoảng 9 tháng, chủ yếu là mùa khô, về mùa đông mưa và rét không thể nào làm được, vì cứ đến chiều tối là hơi đá toả ra lạnh buốt, rất lạnh. Một lao động làm việc đều đặn có thể thu nhập được khoảng 50 đến 70 triệu đồng trong năm.

Nghề chẻ đá được ra đời từ bao giờ cũng không ai biết rõ, chỉ nghe người xưa kể lại hoạt động của công việc này mạnh mẻ nhất là từ khoảng cuối thế kỷ XIX. Lúc đó, có một vị Tham Tri bộ Công của triều Nguyễn đã huy động người dân trong vùng góp sức chẻ đá để xây dựng thành tuyến phòng thủ ở cửa biển Thuận An (huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế bây giờ). Người dân vùng này đã làm công việc chẻ đá trong một thời gian dài cho đến khi xây xong tuyến phòng thủ ở trong đó, những viên đá hình khối vuông chưa được vận chuyển đi hết vẫn còn lại ở vùng này đã được người dân ở đây gọi là đá "Quan hạng” có nghĩa là đá do quan của triều đình đặt làm. Nghề chẻ đá được hình thành từ đó, rất nhiều thợ chẻ đá ở vùng này có tay nghề cao đã chế tác ra nhiều viên đá vuông vức phục vụ cho việc xây dựng, bỡi vậy nên được bà con trong và ngoài tỉnh ưa chuộng.

Có một nhà địa chất học người Pháp khi đến vùng đất này đã nói rằng: Thiên nhiên đã ban tặng cho địa phương một trữ lượng đá dồi dào đáng quý, có đến hàng triệu mét khối. Đá không chỉ nằm lộ thiên trên mặt đất, đào xuống sâu hàng chục mét dưới lòng đất cũng gặp đá cuội, đá nằm chồng chất lên nhau thành từng mỏ với những viên đá đủ kích cỡ, có màu xanh xám xịt. Chất lượng mỏ đá ở vùng đất này không ở đâu bằng, đá chắc, mịn, rất tốt cho xây dựng công trình dân dụng gia đình đến đại công trình như cầu, cống, đập thuỷ lợi, lăng mộ, kè chắn sóng…

Ngày xưa người ta chẻ đá chủ yếu chế tác các loại cối xay lúa, cối xay bột, đá táng kê cột nhà và các vật dụng sinh hoạt trong gia đình. Nhưng nay chẻ đá để phục vụ các công trình xây dựng. thợ chẻ đá giỏi phải có kỹ thuật tốt để cho ra đá đẹp, vuông vức đúng kích thước, và quan trọng phải biết cách chẻ để tận dụng những tảng đá to.

Nguồn đá ở đây chủ yếu là đá mồ côi. Có viên nặng cả tấn đến vài tấn, trước đây đá nằm trên mặt đất nhưng qua quá trình khai thác nên bây giờ muốn có nguồn nguyên liệu phải đào sâu xuống mặt đất từ 0,5 đến 1m. Đá nguyên liệu mua cũng dễ và rẻ, bới vì sau khi lấy được đá thì chủ vườn sẽ giải phóng được đất để canh tác lại vừa bán được tiền. Hiện giá mua mỗi xe ô tô tải khoảng 1,6 - 1,7 triệu đồng. Đá sau khi được đào lên, những hòn nhỏ được gom lại và vận chuyển bằng xe ô tô còn hòn lớn thì dùng xe múc, xe ủi kéo hoặc đẩy đến bãi tập kết.

Hiện nay các công trình xây dựng ngày càng chuộng đá chẻ nên nghề chẻ đá vì thế cũng trở nên sôi động. Sản phẩm đá chẻ hiện nay chủ yếu là hai loại: Đá hộc và đá thước. Đá thước thông thường có kích thước dài 30 cm, rộng 20 cm, dày cỡ 10 cm, có thể nhẳn một mặt hoặc hai mặt, loại này chủ yếu phục vụ để xây dựng nhà ở và các công trình kiến trúc khác nhau như tường rào, lăng mộ. Loại đá này bán ra thị trường từ 12.000 - 13.000 đồng/viên. Còn đá hộc là loại đá cong vênh hoặc bị vỡ trong quá trình chế tác, chủ yếu phục vụ cho các công trình xây dựng như làm móng nhà, xây tường rào, lát đê kè, làm rọ đá… được bán theo khối với giá rẻ hơn.

Nghề chẻ đá tuy mang lại thu nhập khá cao cho người dân tuy nhiên cũng tiềm ẩn nhiều bất an, lo lắng. Vì miếng cơm manh áo, nhiều thợ đá đã bất chấp hiểm nguy để hành nghề. Với những thợ chẻ đá thì những mảnh vỡ bằng sắt từ đe, búa hoặc từ đá bắn ra, xuyên thủng áo quần, cắm vào người phải đi phẩu thuật để lấy ra là chuyện bình thường, đã làm nghề chẻ đá thì chuyện dập tay, dập chân hay xây xước, chảy máu do va phải cạnh đá, miểng đá bắn vào là chuyện không thể tránh khỏi. Đó là những hiểm nguy nhìn thấy, còn lại tồn hại khác như viêm đường hô hấp, viêm xoang, viêm họng… do tiếp xúc với bụi đá lâu ngày cũng khó mà tránh khỏi. Vẫn biết là làm nghề này hầu hết người thợ đều bị những bệnh như trên nhưng chung quy cũng tại miếng cơm manh áo mà đành nhắm mắt đưa chân. Giữa vùng quê ít ruộng đất này nếu không theo nghề chẻ đá thì cũng khó có thể xoay xở được để lo cho con cái ăn học cũng như bao nhiêu việc cần làm hàng ngày trong mỗi gia đình.

Đá chẻ ở đây được bán đi nhiều nơi trong tỉnh và các địa phương lân cận như: Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế, nhu cầu đá xây dựng càng ngày càng rất lớn trong đời sống, mỗi mùa xây dựng phải cần đến hàng ngàn khối nhưng nguồn đá ở Gio Hòa nói riêng và vùng Tây Gio Linh nói chung ngày càng khan hiếm. Vì vậy mới biết chuyện khai thác, mua bán đá xây dựng ở đây đang trong thời điểm nóng đến mức nào.Đá mồ côi vốn là nguồn tài nguyên phong phú của Gio Hoà, tuy nhiên qua nhiều năm khai thác đã dần cạn kiệt. Ngày trước người dân có thể khai thác đá ngay trong vườn nhà, nay phải đi mua ở các nông trường. Dự kiến trong khoảng 5 năm tới, đá mồ côi sẽ không còn nữa, chính quyền địa phương đang tính phương án chuyển đổi nghề cho những thợ trên địa bàn.

Hiện nay, hầu hết những vùng có nguồn đá trên đất nước, người dân đã sử dụng các loại máy vận hành bằng điện để chẻ đá thay thế dần cho việc làm thủ công với búa, đục, ve, nỏ... nhưng cần phải hết sức khéo léo để tránh bụi đá hoặc các viên đá nhỏ bay ra dễ gây hại sức khỏe. việc cắt bằng máy thì tương đối nhanh hơn, nhưng phải bỏ ra chi phí mua máy, tiền điện, và lưỡi cắt nên thu nhập cũng không cao hơn làm thủ công được bao nhiêu.

Ngoài việc cắt, chẻ đá thì còn một số lao động khác làm việc kèm theo như phụ trách việc gánh đá thành phẩm, bốc xếp, vận chuyển đến nơi cho khách hàng... công việc nầy thường không được đều đặn hàng ngày nhưng luôn luôn có mặt khi được gọi. Ở một số địa phương khác trong nước cũng có nhiều mỏ đá giống miền Tây Gio Linh, Quảng Trị như: xã Cô Tô, huyện Tri Tôn (An Giang). Xã Hòa Sơn, huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng, xã Thổ Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang, xã Chư H’ Reng, TP Kontum, tỉnh Kontum, xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai … kế sinh nhai của người dân các vùng miền đều giống nhau về một công việc.

Từ nghề truyền thống nặng nhọc đó được lưu truyền từ đời này qua đời khác, hiện nay Chính quyền xã Gio Hòa đã tổ chức cuộc thi chẻ đá đầu Xuân hàng năm vào dịp tết Nguyên Đán, thường vào sáng 05 tết, việc mở hội thi chẻ đá nhằm để người dân vui chơi đầu xuân, giao lưu học hỏi kinh nghiệm và còn để rèn luyện tay nghề cho cán bộ và nhân dân trong vùng, hội thi chẻ đá hàng năm của xã Gio Hòa là nét truyền thống, mang ý nghĩa tạo cho người lao động ra quân đầu năm đồng thời đểkhởi đầu cho một năm lao động bằng nghề sẵn có và tìm ra những người thợ giỏi, tiếp tục giữ gìn và phát huy nghề chẻ đá truyền thống nơi đây.

Hội thi bao giờ cũng có sự tham gia của cả nông dân và cán bộ, công chức UBND xã. Theo lãnh đạo xã, cán bộ cũng biết chẻ đá, thậm chí chẻ giỏi do những ngày cuối tuần nghỉ việc đã tham gia tăng thu nhập bằng nghề này.

Từ những ngày trước tết, ban tổ chức đã cho vận chuyển một khối lượng đá nhất định, tương đương nhau đến địa điểm tập kết sẽ diễn ra cuộc so tài, đặt vào vị trí ngay ngắn, thẳng hàng, có khoảng cách xa nhau để khi tác nghiệp không bị ảnh hưởng, sau đó dùng dây thừng để khoanh lại thành một khu vực an toàn tuyệt đối, khán giả không được vượt qua ranh giới này để vào cổ vũ. Tham gia cuộc thi thường có 6 - 8 đội: Gồm 5 thôn trong xã (Đại Tâm, Đồng Hòa, Nhất Hòa, Trí Hòa và Tiến Hòa), ngoài ra còn có đơn vị khối công đoàn cơ quan xã cùng hưởng ứng. Mỗi đội thi có 2 người. Đây là những nghệ nhân có đầy đủ kinh nghiệm, tuổi nghề và sức khỏe. Thể lệ cuộc thi khá đơn giản, ban tổ chức đã chuẩn bị cho mỗi đội một khối đá cuội lớn tương đương nhau, khoảng từ 4 – 5 người ôm. Trong một giờ đồng hồ, mỗi đội chơi sẽ chẻ đá thành viên, đội nào chẻ được nhiều viên đúng kích thước 10-18-26 vuông vức nhất bằng hình thức thủ công với ve, đục, búa… vuông thành sắc cạnh, hình thức đẹp, cân đối, đủ hai mặt thì sẽ giành chiến thắng. Đây là năm thứ tư địa phương đã tổ chức, phần thưởng dành cho đội chiến thắng không lớn, nhưng khá nhiều người đến xem và cổ vũ. Rất nhiều nhà hảo tâm và đơn vị tài trợ đã tạo cho giải thưởng ngày càng lớn dần. Ban tổ chức luôn thông báo trên loa phóng thanh vừa để công khai số tiền thưởng tăng dần đồng thời để động viên tinh thần thi đua làm việc của các thí sinh tham dự tranh tài, khán giả thì không ngớt hò reo cổ vũ, người dân thôn nào thì động viên cho đội của mình ở đó, tạo cho không khí ngày hội rất vui nhộn, tiếng trống hòa với tiếng vổ tay tạo nên một âm thanh vang dội giữa góc rừng ven đường cùng với không khí mùa xuân ấm áp.

Ban đầu, các đội dùng ve đục 3 lỗ nhỏ, gọi 3 nọc trên hòn đá. Sau đó, dùng 3 thanh sắt nhỏ hình tháp nhọn chêm vào 3 lỗ trên, đánh mạnh bằng búa tạ để hòn đá tảng vỡ đôi.. Một tảng đá sau khi được chẻ làm đôi, sẽ tiếp tục chẻ 4, chẻ 8 để dần hình thành các viên đá. Sau khi tảng đá to được chẻ nhỏ, người thợ dùng búa gọt các góc để viên đá đạt kích thước theo yêu cầu.

Trước đây, thợ đá phải dùng cuốc, xẻng, xà beng để đào lấy những khối đá to, có khi nặng đến hàng tấn nằm lổm nhổm trên mặt đất rồi mới chẻ nhỏ ra được. Còn nay họ đỡ vất vả và làm nhanh hơn vì đa số dùng máy múc, máy xúc đất thay bằng đào tay. Tuy vậy, tính chất nguy hiểm, cực nhọc của những "phu đá" vẫn không hề thay đổi.

Sau cuộc thi, các sản phẩm từ đá mồ côi của các nghệ nhân không được lấy về và cũng không được bán, chỉ được dùng vào việc tu bổ, sửa sang các công trình di tích lịch sử, văn hóa trên địa bàn xã…

                                                                                      HTT


GHI Ở LÀNG CHÀI VỊNH MỐC

(Bài Lê Nguyên Hồng)


Ở phía bắc bãi tắm Cửa Tùng nổi tiếnglà "Nữ Hoàng các bãi tắm ởmiền Trung”có một làng chài mang dáng vành trăng khuyết với chiều dài gần1,5 ki lô mét, được hình thành bởi mũi Lay và mũi Bang nhô ra bên chân sóng thuộc vùng biển bãi ngang xã Vĩnh Thạch. Từ xa xưa, người ta gọi đây là làng Vịnh - Cái tên nghe chung chung như bao làng Vịnh khác ở ven biểnViệt Nam. Xã Vĩnh Thạch chỉ có làng Vịnh làm ngư nghiệp. Làng Vịnh có hai xóm: xóm Thái và xóm Ma. Ở chính giữa mép "vành trăng khuyết” màu cát mịn màng tiếp giáp với biển có một phiến đá to nhô lên do tạo hóa sinh ra. Thế là người ta căn cứ phiến đá đó để làm "mốc”phân định hai xóm của làng. Từ cái mốcgiớiphân định đó nên người dân gọi là làng Vịnh Mốc. Theo tương truyền, hai xóm của làng đã có một thời gian dài tách biệt nhau do hai anh em cùng một gia đình bất hòatranh giành di sản cha mẹ để lại. Anh em không chịu nhường nhịn nhau nên xẩy ra hiềm khích xung đột căng thẳng kéo dài, trở thành thù hận lâu đời không thể hóa giải được. Hai anh emlàm thủ lĩnh hai xóm nên cư dân không giao lưu qua lại với nhau. Thế rồi các thế hệ của hai xóm cũng theo ý của người đi trước nên không có mối thân thiện xóm giềng, đèn xóm nào xóm ấy rạng. Chính phiến đá phân định mốc giới hai xóm như một lời nguyền mà con người lấy đó để chia cắt tình thân trên cùng một làng Vịnh. Từ xưa, người dân Vịnh Mốc làm nghề chài lưới nên tập trung sống ở bãi cát cho thuận tiện ra khơi, nhà chỉ làm đơn sơ, tạm bợ, không mơ tưởng chuyện định cư trên đất liền. Hàng năm, thiên tai, sóng dữ tàn pháhết nhà cửa.Người dân làm lại chỗ trú ngụ để mưu sinh từ nghề đánh bắt gần bờ mang tính truyền thống bằng những thuyền gỗ nhỏ nhoi cùng thuyền thúng lênh đênh, ngư cụ thô sơ. Qua nhiều thế hệ, cuộc sống của ngư dân Vịnh Mốc vẫn không khá lên được, chỉ đắp đổiqua ngàyvới những sản phẩm đánh bắt gần bờ như cánhỏ, tôm, cua, ruốc, rong biển…Một thời gian dài, khoa học chưa đến với ngư dân, cuộc mưu sinh trên sóng nước chỉ biết nhờ vào kinh nghiệm và sự may rủi nên con người tin vào sức mạnh huyền bí của thiên nhiên. Có những chuyến ra khơi gặp nạn, người dân đã cứu nhau thoát khỏi tử thần nên chuyện hiềm khích của hai xóm trước đây dần dần bị lu mờ, thay vào đó là sự qua lại, rồi trở nên thân thiết. Trai gái hai xóm quen biết nhau, hò hẹn, trở thành bạn tình rồi và nên duyên chồng vợ đã tạo nên dây tơ ràng buộc cuộc sống của hai làng. Với lại, khi thủ lĩnh của hai làng đã quá cố, ngư dân không mấy mặn mà với sự ngăn cách chia ly, thù hận xưa đã chấm dứt. Cuộc sống nghiệt ngã, tính mạng con người chơi vơiđầu ngọn sóng đã gắn kết những mảnh đời cùng cảnh ngộ một cách tự nguyện, gạt bỏ những hiềm khích củađời trước truyền lại. Từ đó, làng Vịnh Mốc lập ra những bãi đá bằng phẳng trên dọc tuyến biển để làm chỗ cúng tế hàng năm, cầu trời yên biển lặng để ngư dân ra khơi đánh bắt nhiều hải sản, cho cuộc sống ngày một khá hơn. Tại lễ cúng tế, những bậc cao niên áo khăn chỉnh tề làm chủ lễ, con cháuđại diện các gia đình có mặt đông đủ,khấn lạy trước thần linh với những lời cầu nguyện từ tấm lòng thành kính, mong ước trời yên biển lặng, thuận buồm xuôi gió, khai thác hải sản thuận lợi, vạn sự bình an...

Chiến tranh xẩy ra. Làng chài Vịnh Mốc cũng như tất cả mọi làng quê trên mảnh đất Vĩnh Linh chìm trong khói lửa đạn bom giặc Mỹ hủy diệt. Cái tảng đá to ở mép biển là dấu mốc giữa hai xóm ngày xưa cũng bị bom đạn phá hủy, không còn dấu vết. Những bãi đá người dân làm nơi cúng tế trên bờ cũng chẳngcòn nguyên vẹn. Làng chài chỉ còn lại đá,cát với hố bom, hố pháo dày đặc. Chiến tranh ngày càng ác liệt. Dọc theo tuyến biểnbãi ngangxã Vĩnh Thái, Vĩnh Thạch, Vĩnh Quang (nay là thị trấn Cửa Tùng), máy bay Mỹ ném bom rải thảm. Ở ngoài biển, tàu chiến địch rình mò bủa vây bằng các loại pháo tầm gần, tầm xa, hòng ngăn chặn sự chi viện của đất liền cho đảo Cồn Cỏ. Đứng trước sự khốc liệt của chiến tranh, từ tháng 4 năm 1966, Chi bộ Vịnh Mốc quyết định thành lập một tổ 5 người đào thử một hầm địa đạo ở vùng đồi gần bờ biển để trú ẩn. Đến tháng 6 năm 1966, bốn địa đạo khác ở xã Vĩnh Thạch được triển khai, trong đó địa đạo số 4 dài nhất, kỳ công nhất, có sự tham gia của Đồn công an vũ trang 140 do Đồn trưởng Hà Xuân Vi chỉ đạo kỹ thuật và hai trung đội dân quân Sơn Trung, Sơn Hạ của xã phối hợp. Địa đạo này với quy mô 3 tầng, có chỗ gia đình ở, hội trường sinh hoạt, chiếu phim, văn nghệ, hội họp, nhà hộ sinh, nơi cất giấu lương thực và vũ khí, có chiều dài 2834 mét, được bảo tồn cho du khách đến chiêm ngưỡng sau chiến tranh, gọi là địa đạo Vịnh Mốc. Từ năm 1969, Lãnh đạo xã Vĩnh Thạch quyết định chuyển dân Vịnh Mốc lên định cư trên vùng đất đỏ để phù hợp với tình hình thời chiến, cũng là một cuộc di dân, ổn định cuộc sống lâu dài, có điều kiện bám biển tốt hơn. Nhờ quyết định sáng suốt đó mà người dân Vịnh Mốc đã bảo tồn được sự sống suốt những năm chiến tranh ác liệt, chiến đấu tại chỗ và phục vụ tiếp tế cho đảo Cồn Cỏđểchiến đấu với máy bay, tàu chiến, ngăn chặnđịchâm mưu đổ bộ chiếm đảo. Trong số 5 địa đạo ở xã Vĩnh Thạch thì địa đạo Vịnh Mốc trở thành di tích Quốc gia đặc biệt. Làng Vịnh Mốc đang lưu giữ một di tích danh thắng trong lòng đất mang tầm vóc của sức mạnh Việt Nam. Người ta gọi đó là một "làng hầm” thời chiến tranh chống Mỹ. Cả vùng đất tuyến lửa Vĩnh Linh có 114 làng hầm lớn nhỏ khác nhau với tổng chiều dài xuyên trong lòng đất trên 40 ki lô mét và hàng ngàn cây số giao thông hào dọc ngang như sa bàn chiến trận. Tại "làng hầm” Vịnh Mốc có 17 đứa trẻ ra đời, biểu thị cho sự sống sinh sôi trong lòng đất, khát vọng của con người mãi mãi trường tồn. Sau chiến tranh, du khách trong nước và quốc tế đến tham quan địa đạo Vịnh Mốc đều cảm nhận được ý chí kiên cường, quả cảm và tấm lòng chân chất của người dân làng biển. Ngày mùng 8 tháng 4 năm 1985, hai đoàn nhà báo thuộc hai tờ báo lớn của Hoa Kỳ đến thăm địa đạo Vịnh Mốc, họ bất ngờ trước sức mạnhthầnkỳ của người Việt Nam ngay tại mảnh đất này. Nhà báo Di AND HOWXTi-Tạp chí New-Time đã sững sốt thốt lên: "Đối với một người Mỹ đến thăm, địa đạo Vịnh Mốc là một thành tựu tuyệt vời. Những nổ lực của nhân dân để tồn tại trong điều kiện cực kỳ khó khăn như thế này là một điều khích lệ…”.Còn nhà báo SaGrôSô thán phục: "Tôi rất ngạc nhiên khi được thăm địa đạo và đây là một dịp tuyệt vời. Tôi hi vọng nơi đây sẽ trở thành thiên đường cho cả thế giới đến thăm…”. Chính người Mỹ sau cuộc chiến tranh xâm lược mới hiểu đượcvì sao họ thất bại trên đất Việt Nam? Và địa đạo Vịnh Mốc là mộtminh chứng hùng hồn khẳng định Việt Nam chiến thắng kẻ xâm lược với vũ khí tối tân là điều tất yếu. Càng đi sâu vào lòng địa đạo mới hiểu cặn kẽ sự tuyệt vời hiếm có của kỳ quan danh thắng đặc biệt này.Cán bộ, nhân dân làng Vịnh Mốc đã xác định rõ ý thức bảo vệ địa đạo, bảo vệ an ninh cho du khách, tỏ lòng mến mộ với bạn bè, anh em, đồng chí từ khắp nơi khi đến với quê hương mình nói riêng và Vĩnh Linh nói chung. Làng Vịnh Mốc đã để ấn tượng đẹp đẽ trong lòng khách thập phương. Đó cũng là bản chất, tấm lòng ngời sáng của con người trên xứ sở tuyến lửa Vĩnh Linh.

Trở lại Vịnh Mốc hôm nay, những dấu tích xưa của làng không còn nữa. Ngọn Hải đăngở mũi Laycó từ thời Pháp, bị hư hại do bom đạn chiến tranh, đã được phục hồi, trở thành tâm điểm cho tàu, thuyền ra khơi giữa đại dương hướng đường về đất liền vào ban đêm. Ở bờ biển phía trước mũi Lay là chợ cá. Tuy không nhộn nhịp như chợ cá Cửa Tùng nhưng đây là chợ rộn ràng, tấp nập, khẩn trương vào đầu buổi sáng. Thương lái cũng như người dân chờ đón thuyền về, mua sĩ hải sản để kịp mang đi bán tại các chợ trong và ngoài huyện.

Trải qua bao đau thương mất mát trong chiến tranh, hơn ai hết, người dân Vịnh Mốc hiểu rõ giá trị của cuộc sống hôm nay, từng bước vượt qua đời sống khó khăn, xây dựng xóm làng ngày càng tươi đẹp. Đời sống tinh thần là động lực tạo ra niềm vui, lạc quan vào cuộc sống để vươn lên. Năm 1997, Vịnh Mốc là một trong những đơn vị phát động xây dựng làng văn hóa rất sớm ở huyện Vĩnh Linh, được tỉnh công nhận đạt chuẩn làng văn hóa lần thứ nhất vào năm 1999, công nhận lần thứ hai vào năm 2011. Ông Hồ Minh Vừng, Bí thư Chi bộ, Trưởng làng văn hóa Vịnh Mốc nói rằng: "Văn hóa văn nghệ là món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân Vịnh Mốc.Ngay hồi chiến tranh ở dưới lòng địa đạo, những tiết mục văn nghệ của làng vẫn được biểu diễn cho nhân dân, dân quân, bộ đội xem. Những điệu hò, câu hát mang đậm nét truyền thống của làng, những trò chơi dân gian gắn liền với cuộc sống dân chài từ thế hệ này sang thế hệ khác đang đượcbảo tồn…”.Theo Ban cán sự làng và nhiều vị cao niên ở Vịnh Mốc thì nét văn hóa đặc sắc ở làng là hò chèo cạn và lễ cầu ngư rằm tháng 5 âm lịch. Lễ cầu ngư là lễ lớn nhất của làng. Lễ này mở màn cho mùa khai thác vụ nam nên không giống như một số làng biển khác tổ chức lễ hội cầu ngư vào rằm tháng Giêng hoặc rằm tháng Hai âm lịch. Trong lễ cầu ngư của làng, dù con em bôn ba làm ăn xa xứ hoặc công tác ở khắp mọi vùng miền cũng tìm về quê cha đất Tổ để đoàn tụ, chung vui với gia đình, dòng họ, người thân, làng xóm. Ngày xưa, trong lễ cầu ngư, làng giao trách nhiệm cho những người cao tuổi chuẩn bị cờ, trống và một số phương tiện làm lễ cúng tế. Còn những người am hiểu văn nghệ đảm nhận tiết mục hò chèo cạn tại lễ. Do điều kiện cuộc sống còn khó khăn nên làng chỉ tổ chức phần lễ trang trọng trước khi vào vụ đánh bắt cá nam, không tổ chức phần hội. Sau chiến tranh, lễ cầu ngư được rút gọn đơn giản trước lúc xuất quan ra biển. Dù khó khăn, nhưng trong tâm tưởng của ngư dân vẫn không quên nghi lễ cúng tế, cầu mong cho cuộc sống gặp mọi điều suôn sẻ. Nét văn hóa tâm linh ấy có một ý nghĩa quan trọng với những người suốt đời làm ăn, lênh đênhtrên sóng cả đại dương. Bốn địa điểm bằng phẳng dùng làm nơi cúng tế dọc bờ biển của làng được người dân khôi phục lại để làm chỗ dâng lễ hàng năm trước thần biển, cầu mong những chuyến ra khơi đánh bắt nhiều hải sản, trở về bình yên…Từ năm 2011, được huyện và xã khuyến khích, làng Vịnh Mốc khôi phục lại lễ hội cầu ngư Rằm tháng 5 âm lịch, tạo được sự phấn khởi, rạo rực trong nhân dân.Cứ 3 năm, làng tổ chức lễ hội cầu ngư với quy mô lớn, là ngày hội trọng đại, thể hiện sự đoàn kết của cộng đồng dân cư. Phần lễ cúng ngài cá Ông cùng các vị Thần biển, cúng Đất Trời để cầu mong thuận buồm xuôi gió, cá tôm đầy thuyền, tránh mọi rủi ro, bám ngư trường để bảo vệ chủ quyền biển đảo…Sau phần lễ là phần hội diễn ra rộn ràng, sôi nổi với hò chèo cạn, đua thuyền, thi kéo co dưới nước, thi đan lưới…Nét văn hóa truyền thống độc đáo của làng được khôi phục, con dân sung sướng, con em đi xa phấn chấn, xuôi ngược tìm về. Ngoài lễ hội cầu ngư, làng Vịnh Mốc còn có phong tục cúng tế đầu năm vào ngày mùng 4 tháng Giêng, rằm tháng Hai âm lịch, cúng mộ âm hồn vào rằm tháng Bảyxá tội vong nhân. Những lễ cúng này nằm trong nét đẹp văn hóa tâm linh nhưng không rộn ràng như lễ hội cầu ngư. Mọi nhà đều chăm lo, cùng nhau đóng góp sắm lễ tươm tất, cầu cho những linh hồn bơ vơ, những hồn người gặp nạn trên biển được siêu thoát, cầu mong sự bình an, may mắn đến với mọi nhà, mọi người. Những lễ cúng này được tổ chức vào buổi chiều trên các địa điểm định sẵn dọc bờ biển.

Từ một làng biển nghèo bị chiến tranh tàn phá nhưng bây giờ đã có nhữngđổi thayvượt bậc. Làng quê được khoác lên mình một màu sắc xanh tươi, trẻ trung. Đường làng ngõ xóm được quy hoạch và bê tông hóa. Nhà dân xây dựng kiên cố với đầy đủ phương tiện sinh hoạt trong gia đình cũng như phương tiện đi lại chẳng thua kém những làng quê trong huyện. Vịnh Mốc là một làng đạt các tiêu chí: xanh-sạch-đẹp-an toàn của huyện Vĩnh Linh. Bức tranh của làng do người dân vẽ nên sắc màu đa dạng của thời kỳ đổi mới. Ai đến thăm Vĩnh Thạch là một trong ba xã ở huyện Vĩnh Linh đạt chuẩn xã nông thôn mới đầu tiên của tỉnh Quảng Trị từ năm 2014 cũng đều ghé thăm làng Vịnh Mốc để rút kinh nghiệm từ những thành công trong xây dựng làng văn hóa ở vùng biển bãi ngang. Từ nghèo khó đi lên, tình làng nghĩa xóm gắn bó thủy chung, đoàn kết vững bền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Một vùng quê bền bỉ vươn lên từ nội lực, xây dựng cuộc sống thay đổi qua từng năm. Từ chỗ dân cư thưa thớt sau chiến tranh, Vịnh Mốc hôm nay có gần 1600 nhân khẩu với 355 hộ, là miền quê mà nhiều người muốn đến định cư bởi có nhiều lợi thế do thiên nhiên ưu đãi, nhất là cuộc sống người dân liền kề bên chân sóng. Tiềm năng kinh tế biển dồi dào là thế mạnh của Vịnh Mốc trong quá trình phát triển bền vững, lâu dài. Làng Vịnh Mốc hiện tại có 112 thuyền với công suất từ 6 CV đến 12 CV, khai thác hải sản quanh năm. Theo như lãnh đạo làng thì công suất thuyền như hiện nay thì còn khó vươn khơi xa như các làng biển khác. Do đó làng đang khuyến khích ngư dân đầu tư nâng cấp thuyền, đóng mới tàu công suất lớn hơn để có cơ hội vươn khơixa hơn,dài ngàyhơn. Nghề ngư là chủ yếu, nhưng ngư dân còn trồng trọt, chăn nuôi ở trên đấtvới "chân biển, chân vườn”nên cuộc sống ổn định,bảo đảm an ninh lương thực,không lo lắng khi biển động. Lao động chính đi biển thì chăm lo ngư lưới cụ, lao động phụ thì chăm lo làm nông và làm dịch vụtrên bờ. Từ nghèo khó, đói kém thường xuyên mỗi mùa giáp hạt, đến nay, Vịnh Mốc đã xóa được đói, đẩy lùi được nghèo, thu nhập ngày càng tăng,đời sống vật chất và tinh thần ngày một phát triển, đổi thay.

Ai đã từng đến với những làng chài ven biển Việt Nam, hẳn làng Vịnh Mốclà một địa danh khó phai mờ trong tâm tưởng.Vào những chiều hè, khi ngọn nồm từ biểnthổi vào tươi rói thịt da mới thấy được vị biển có sự quyến rũ kỳ lạ, không muốn rời xa. Khách từ mọi miền quê trong nước và Quốc tế đến đây đều mang theo hình ảnh làng chài Vịnh Mốc với tình cảm yêu mến, mong muốn trở lại để thưởng thức các đặc sản từ biển, được chiêm ngưỡng một làng hầmđặc biệt - Một kỳ quannằm sâu trong lòng đất đang kể về huyền thoại một thời oanh liệt chống ngoại xâm tại một miền quê bên chân sóng trên mảnh đất lũy thép Vĩnh Linh.

                                                                                  Tháng 5-2016

                                                                                           LNH

CÒN ĐÂY ĐIỆU DÂN CA XƯA—Thơ Trần Hoài Thắm

Về đây tìm làn điệu dân ca

Tơ rung xưa lướt dưới tay ngà

Hương Giang còn đó đôi bờ lặng

Rơi bóng Ngự Bình một chiều xa

Đến Huế lần tìm điệu dân ca

Nam Ai than khóc phận xót xa

Tương tư man mác buồn nhân thế

Mái nhì, mái đẩy áo buông tà

Đâu rồi Phu Văn Lâu chiều tím

Nhạc ngựa chùng cương lối sỏi quen

Đâu rồi câu dân ca gọi bạn

Ẩn cả lời ru dưới đáy ngàn

Xưa Huế thương ai về Vỹ Dạ

Ngân ngàn câu hát xứ thần kinh

Bao chàng thi sĩ quên tay nải

Giọng hò ai đó dậy sóng tình

Tôi đứng ngẩn ngơ giữa Trường Tiền

Phố phường tấp nập người ken nêm

Ồn ả tàu xe quay chóng mặt

Trăng buồn lẩn khuất giữa trời đêm

Ừ thế mà rồi cũng phải thôi

Trời đổi đất dời khắp muôn nơi

Đưa điệu ca xưa vào sâu thẳm

Lẳng lặng trong tim mỗi con người...

                                                         THT


GIẤU—Thơ Trần Hoài Thắm

Đông đem dấu lạnh vào đêm
Chắc già lẩn thẩn mà quên giao mùa
Trời xanh giấu những cơn mưa
Cho làn mây trắng chơi đùa trên cao
Biển đông sao chẳng thét gào
Hình như cố giấu khát khao giận hờn
Gió chiều cố giấu nguồn cơn
Nên nhè nhẹ thổi giỡn vờn lá hoa
Nắng nồng đến tận xế tà
Liệu rằng có giấu xót xa đáy lòng?
Xin đừng trách gái góa chồng
Nhớ thương mà giấu như không có gì!
Ông trời giấu nhẹm mùa đi
Để người ngóng đợi XUÂN THÌ ..Lạ chưa?

                                                           THT


LẠ CHƯA ĐÔNG ĐẤY ...---Thơ Trần Hoài Thắm

Chiều nay ...Đông đấy

chiều nay

Vệ đường... dan díu

có may dệt mùa

Có con bướm trắng lượn lờ

Đi tìm bông cải vàng mơ .

Chốn nào?

Thế gian đất rộng, trời cao

Chớm đông hoa cải đã vào vụ đâu!

Vườn quê nắng vẫn thắm màu

Gió chiều ru giấc chiêm bao lạc đường

Má cô thôn nữ ửng hường

Trời như dành hết tình thương cho đời

Sao nồng nàn thế đông ơi

Phải chăng "vật đổi sao dời" là đây?

Xưa mong xuân đến từng ngày

Trời trong nắng ấm đông này lạ chưa?

Ta ngồi nhặt nắng vườn thưa

Ngỡ rằng thu thắm như vừa đâu đây

Ngỡ là hạ nắng đong đầy

Nhưng kìa đông đấy

Mùa này khác xưa...

Trưa 21/11/2018

                                              THT


VỀ LÀNG PHÚ MỸ XƯA---Lê Nguyên Hồng

Phú Mỹ ngày xưa là làng Nam Phú hôm nay, thuộc xã Vĩnh Nam, huyện Vĩnh Linh. Đã 400 năm đi qua, nhưng những nét đẹp về bản sắc văn hóa, về ý nghĩa của đời sống tâm linh, về tình đất tình người keo sơn gắn bó còn in đậm cùng thời gian theo mong ước của các bậc tiền nhân thời mở đất dựng làng. Chốn quê này có những giếng làng cổ, có hội chạy cù mùa xuân,có tục lệ hò hát đối đáp giao duyên, có truyền thốngcúng giỗ mộ âm hồnhàng năm, cùng với những nét văn hóa, tập quán khác...Đó là những di sản của người xưa để lại, một số đang được gìn giữ, bảo tồn để nhắc nhở con cháu mãi mãi nhớ về nguồn cội, nhớ về phong tụcđộc đáo của quê nhà, dù trải qua những bước ngoặt với bao vui buồn của cuộc sống.

Lùi lại thời gian tìm về lịch sử xa xưa của làng Nam Phúhôm nay. Từ buổi sơ khai, Phú Mỹ được gọi là phường. Phường Phú Mỹ cùng với làng Huỳnh Công Nam hợp thành xã Vĩnh Nam. Hai làng sống bên nhau, có chung một dòng kênh chảy ngược, nước không bao giờ cạn. Nơi phát tích dòng kênh chảy ngược này là Bàu Quan (một hồ nước rất rộng) sâu thẳm không bao giờ cạn, xung quanh là một rừng cây cổ thụ bao bọc. Nước từ Bàu Quan chảy ngược theo hướng Tây - Tây Bắc, đi qua làng Phú Mỹ đến Phú Thị Đông, Phú Thị Tây, lên làng Hòa Lộ, Tứ Chính, qua cầu Khay trên Quốc lộ 1A rồi chảy về sông Hồ Xá, xuôi theo dòng Sa Lung đổ về sông Bến Hải ra biển Đông. Có những câu chuyện mang ý nghĩa tâm linh từ dòng kênh chảy ngược này mà chưa có lời giải, các thế hệ chỉ truyền lại cho nhau và lặng lẽ ghi nhận. Làng có hình chữ điền, cấu trúc theo kiểu nông thôn miền Bắc: thôn Đông, thôn Đoài. Nhà cửa của dân bố trí theo luật phong thủy "thượng gia, hạ điền”. Các vùng đất ở nhiều vùng quê chỉ có một ngài khai khẩn, nhưng với làng Nam Phú thì có cùng một lúc 6 vị. Theo gia phả của dòng họ Lê Quang, vào năm 1622, có 6 vị cao Tổ thuộc 6 dòng họ từ Thanh Hóa đưa con em vào xứ Đàng trong khai khẩn đất đai, là: Đặng hữu, Trần Hữu, Lê Văn, Nguyễn Văn, Nguyễn Minh, Lê Quang. Chính vì thế, nhiều thế hệ con cháu làng Phú Mỹ đều thuộc lòng bài văn tế hàng năm ở đình làng là: "Đồng tộc Đặng– Trần – Lê – Nguyễn – Nguyễn – Lê bái thiên địa”. Mở đầu bài tế của làng thể hiện tính thứ tự rõ ràng, không được phép để sót một vị khai khẩn nào. Chuyện này tưởng đơn giản nhưng lại khẳng định tính lịch sử, tính thống nhất từ những việc tưởng chừng bình thường, con cháu hãy trông vào đó mà xử thế cho phải lẽ, phải đạo trong cuộc sống để giữ gìn sự đoàn kết, tránh được mâu thuẫn do vô tình xảy ra. Khi đến vùng đất này, thấy địa thế phong thủy vượng, đất có dáng voi phục, nước có thế rồng thăng nên các bậc tiền nhân dừng chân để dựng làng lập ấp, định cư lâu dài, khai sinh tên làng là Phú Mỹ, với nguyện ước: nơi đây là một làng quê giàu đẹp. Làng được sắp xếp theo thế bàn cờ, có đường ngang, ngõ tắt, đường trục chính khá rộng rãi, đi lại thuận tiện. Các vị khai khẩn đã làm sớ trình lên cấp Phủ đương thời, được người đứng đầu phủ là Nguyễn Hoàng ân chuẩn sự hình thành làng với tên gọi đó. Sau khi 6 dòng họ khai khẩn nên làng Phú Mỹ, nhiều họ tộc như: Nguyễn Hữu, họ Đoàn, họ Võ, họ Trần… từ nơi khác cũng tìm về đây quần tụ ngày càng đông đúc. Đến cuối thế kỷ 19, Lý trưởng ở địa phương xin Tri phủ Vĩnh Linh khai phá vùng rừng phía Tây Bắc của xã Vĩnh Nam, lập thêm làng Phường Mộ, mở rộng điền địa, cương thổ của làng Phú Mỹ. Các họ tộc khác như: Đặng, Lê, Phan,Trần… tìm đến vùng đất mới khai phá định canh định cư, tạo nên cuộc sống nhộn nhịp, ngày thêm đông đúc.Dù đến trước hay đến sau, con dân các họ tộcđã đoàn kết, cùng nhau đấu tranh chế ngự thiên nhiên, diệt trừ ác thú, chống lại cường quyền áp bức, bảo vệ cuộc sống. Thế hệ trước đặt nền móng cho thế hệ kế tiếp, lăn lộn với cuộc sống khắc nghiệt, khai phá ruộng nương, đắp kè chống xói lở, đào mương khơi dòng giữ nước, phòng chống bão lũ hàng năm. Trải qua hàng trăm năm bền bỉ dựng nghiệp, dân làng Phú Mỹ đã biến khe Choi thành đồng ruộng, rừng rú hoang vu thành đất canh tác…Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ác liệt, Phú Mỹ trở thành trung tâm chính trị của khu Ủy Vĩnh Linh; Tất cả mọi hoạch định chiến lược về kinh tế-xã hội thời chiến cũng như các phương án phòng tránhbom đạn của không quân Mỹ, phương án chiến đấu củalàng. 10 cô gáilà dân quânxã Vĩnh Nam thời chống Mỹ đã lập nhiều chiến công xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu mà báo chí ca ngợi, được Bác Hồ gửi tặng Huy hiệu của Người, đều là con em làng Phú Mỹ. Giờ đây, 10 cô gái ấy, mỗi người một hoàn cảnh, nhưng khi nhớ về một thời oanh liệt, hi sinh tuổi trẻ cho Tổ quốc đều bâng khuâng da diết về kỷ niệm xưa, dù tuổi cao sức yếu vẫn như thấy mình sống lại tuổi thanh xuân. Họ là đội quân tóc dài gan dạ, trung kiên, để lại niềm tự hào cho quê hương Vĩnh Nam Anh hùng một thời vang dội chiến công đi vào sử sách. Ao ước giản đơn của họ là có một lần tất cả những chị em dân quân thời chống Mỹ được ra thăm lăng Bác Hồ.

Vĩnh Nam là địa phương tiếp giáp thị trấn Hồ Xá, có nhiều cơ quan quan trọng của khu vực Vĩnh Linh đóng nên địch tìm mọi cách hủy diệt. Chiến tranh đi qua, làng Phú Mỹ cũng như xã Vĩnh Nam bị bom đạn cày xới băm vằm, cơ sở vật chất bị san bằng.Vừa khai hoang phục hóa để gieo cấy lúa, trồng rau màu chống đói, con dân của làng vừa phải nạo vét, xây dựng lại những giếng cổ của làng bị bom đạn vùi lấp để đảm bảo nguồn nước cho cuộc sống, sinh hoạt cộng đồng. Sau này, khi giếng gia đình được hình thành, làng vẫn bảo tồn 2 giếng cổ trong số 6 giếng có từ xa xưa. Những giếng cổbảo tồnđược xây thành bảo vệ chắc chắn để chống mưa lũ ngập làm sập lòng giếng. Khu vực quanh giếng được đổ bê tông sạch sẽ, rộng rãi, có chỗ cho mọi người đến tham quan, cho con em đi xa ghé về thăm lại chốn xưa, ngồi ôn kỷ niệm một thời gắn liền với giếng mỗi ngày.Theo lời người xưa truyền lại, ở đâu có giếng, có nguồn nước mạch trào lên thì ở đó mới có phong thủy tốt, báo hiệu cuộc sống phát triển, sinh sôi. Nếu giếng bị lấp do điều kiện tự nhiên hoặc do con người cố ý sẽ là điều không tốt. Muốn lấp giếng vì một mục đích nào đó của con người thì phải có lễ cúng đất trời, có những thủ tục xin thủy thần và thổ thần mới yên chuyện... Giếng cổ, mãi mãi là con mắt của đất soi bóngmây trời lồng lộng với thời gian, nhắn nhủ với các thế hệ hôm nay và mai sau rằng: Hãy bảo vệ nguồn sinh thủy vô giá của làng, bởi mạng dân gắn liền mạch nước, cũng qua đó,đời sau có cơ hộitìm lại được niên đại ra đời củagiếng cổ từnhững mẫu đá được xây dựng từ thuở nguyên sơ. Dấu tích của làng nhờ đó mà tính được chính xác thời gian hình thành, cũng giống như gốc gác của một dòng tộc được tìm về đúng với cội nguồn.

Có một nét đẹp về ý nghĩa tâm linh của làngPhú Mỹđược duy trì, đó là hương khói cho các phần mộ âm hồn vào ngày rằm tháng bảyxá tội vong nhân, mùng 5tết âm lịch.Đó là lễ cúng linh hồnnhững người thuở bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực, nằm lại xứ người, hồn còn vương vấn chốn hồng trần, không có thân nhân chăm sóc; Hoặc những nhà nghèo đói khi người thân mất, chỉ chôn cất sơ sài, không có ngày giỗ chạp, trở thành mồ vô chủ. Nét văn hóa tâm linh này muốn nhắn nhủ với đời saurằng: Có cuộc sống ấm no, hạnh phúc do Đảng và nhà Nước mang lại hôm nay phải nhớ về một thuởdưới chế độ cũ lầm than, cơ cực.Lịch sử của làng Phú Mỹ còn ghi lại suốt một thời gian dài ngày xưa nghèo, nghèo lắm! Lúa chỉ có giống cao cây và dài ngày, năng suất thấp như: Lúa ré, lúa bát, lúa hom, nếp cái, nếp mây. Hoa màu chủ yếu: Khoai, môn, sắn. Đa số gia đình túng thiếu mỗi mùa giáp hạt. Trong chế độ thực dân phong kiến, tình trạng "cơm bữa diếp” là bạn đồng hành với cuộc sống mọi gia đình. Trước năm 1945, cả làng Phú Mỹ có khỏang 30 gia đình làm nghề mộc, rèn, đóng cối xay, thợ may, thầy thuốc, trồng dâu nuôi tằm, bịt trống, đánh bắt chim cá..., trong số đó chỉ có một ít nhà gọi là khấm khá, còn lại cũng chịu chung cảnh nghèo. Cái nghèo của vùng đất thể hiện trong cảnh đi chợ hàng ngày của phụ nữ được lưu truyền lại trong những câu ca buồn. Bây giờ, chính các thế hệ ở Phú Mỹ nghe lại câu ca ấy mà rưng rưng nước mắt, cứ ngỡ như nghe chuyện cổ tích đâu đó, nghĩ mà thương bao thế hệ chân đất đầu trần, một đời lận đận lo chuyện áo cơm cực khổ, gian truân:

Dại chi mà lấy làng phường

Đi chợ toàn "néc” không "sương” tí nào

ỞPhú Mỹ có miếu Ông đặt ở phía đông, miếu Bà đặt ở phía tâybêncạnh đình làng. Chiến tranh đã hủy diệt những chốn linh thiêng này. Thế hệ đang sống còn nhớ rõ khu đất đặt miếu Bà nhưng chưa có điều kiện phục dựng. Đất miếu Ông, đất đình làng còn đó, như chờ đợi sự chung tay của người dân tôn tạo lại để có chỗ thờ cúng, nhớ ơn bậc tiền khai khẩn nên cơ nghiệp làng hôm nay.

Sau khi đất nước thống nhất, bước vào thời kỳ tái thiết xây dựng, các hợp tác xã bậc thấp ở tất cả các xã trong huyện sáp nhập lại thành hợp tác xã bậc cao toàn xã. Cũng từ đó, làng Phú Mỹ đổi thành tên gọi mới là làng Nam Phú cho phù hợp với tình hình thực tế. Những bước đi lên của làng được ghi dấu qua tháng năm đổi mới. Đến nay, làng Nam Phú có 5 xóm với hơn 30 dòng họ, 397 hộ, 1578 nhân khẩu chung sống trên vùng đất đỏ ba zan hơn 400 héc ta. Trải qua 30 năm đổi mới đất nước, làng Nam Phú từng bước chuyển mình theo nhịp phát triển của xã Vĩnh Nam qua mỗi giai đoạn lịch sử. Từ một làng thuần nông có diện tích ruộng đất trên 200 héc ta để gieo cấy lúa, trồng tiêu, cao su, hoa màu…, Nam Phú đã xuất hiện nhiều gia đình làm nghề dịch vụ ăn uống, bách hóa tổng hợp, mở mang các nghề: rèn, mộc, xây dựng, đại lý vật liệu xây dựng…Người dân Nam Phú đang có những suy nghĩ vươn lên từ tiềm năng đất đỏ ba zan đối với cây trồng, vật nuôi theo hướng mới có giá trị hàng hóa, và khai thác vùng đất cạnhthị trấn Hồ Xá để phát triển các loại hình kinh tế phi nông nghiệp đa dạngven đô.

Ngàyxưa, dù cuộc sống vất vả, lận đận gian nan, nhưng các bậc tiền nhân vẫn chú trọng đến nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng, thể hiện được nét cao thượng, không chịu cúi mình trước hoàn cảnh bất lợi. Người ta đã dành một vùng đất rộng để làm nơi vui chơi giải trí bằng Hội chạy cù hàng năm vào dịp tết âm lịch. Hội chạy cù ẩn chứa tinh thần thượng võ, ý chí kiên cường của con người trước khó khăn thử thách, thu hút nhân dân cả Tổng thời bấy giờ tìm đến thưởng thức, cổ vũ. Qua hội chạy cù, người xưa muốn nhắn gửi với hậu thế rằng: Muốn chiến thắng phải có sức khỏe, phải biết đoàn kết, đồng sức đồng lòng, không bó tay trước khó khăn! Nét đẹp văn hóa mang tính cộng đồng này vẫn được các thế hệ con cháu của làng gìn giữ đời này sang đời khác.Thế hệ trước truyền lại thế hệ sau, tạo ra sự đam mê Hội chạy cù của làng. Luật chạy cù rất nghiêm ngặt. Hai phe chơi chọn ra những chàng trai khỏe mạnh, nhanh nhẹn tham gia quân cù, không quy định số lượng người và thời gian. Hai đầu trạng cù trồng haicây tre cao, trên ngọn có treo haicái rọ đan bằng tre. Phe nào ném được cù vào rọ là chiến thắng. Cù được làm bằng quả bưởi to được hơ qua lửa cho mềm và khó vỡ. Ở dưới hai cây tre có những đối thủ của phe này lay tre của phe kia để không cho cù rơi theo ý muốn của đối phương. Sau bahồi chiêng trống, khi thấy ông cai ra cù là đối phương xông vào cướp, vật lộn nhau quyết liệt để dành lấy cù ném vào rọ. Cù rơi lọt vào rọ ở ngọn tre là điều rất khó khăn. Phe nào thắng là một điều may mắn kỳ diệu. Anh Lê Quang Bình, Trưởng làng Nam Phú tâm sự, có ý nuối tiếc: "Trước đây, trong sân thì chạy cù, ngoài sân có các điểm bán hàng, nhộn nhịp khách mua, giống như chợ xuân ở quê. Trẻ con cũng tụ tập ngoài sân cù để chơi các trò của tuổi nhỏ như đánh khăng, đánh đáo, cướp cờ,chơi ù, thả diều, bịt mắt bắt dê…Hội chạy cù được phục hồi lại nhưng vẫn còn thiếu những trò chơi dân gian góp thêm phần rộn ràng trong ngày xuân…”

Dù cuộc sống nghèo khó nhưng người dân Phú Mỹ ngày trước luôn lạc quan yêu đời, yêu chốn quê nghèo với tình người chân chất, tình nghĩa xóm giềng thân thuộc ruột rà. Những đêm trăng thanh gió mát, trai gái thường tụ tập nhau tại một gia đình có sân rộng rãi để cùng nhau hát xướng. Thời xưa chưa có ra đi ô, ti vi, cho nên văn nghệ do làng xóm tự tạo ra, là món ăn tinh thần không thể thiếu trong cộng đồng dân cư. Những làn điệu dân ca phổ biến trong các cuộc ca hát đó là: Hò chèo đò, hò hụi, hò giã gạo, các điệu lý, hát giao duyên, hát ghẹo... Những cuộc hội tụ hò hát của trai gái trong làng say sưa không biết mệt sau sau một ngày làm lụng vất vả. Đặc biệt, làng Phú Mỹ thường tổ chức đêm hò giã gạo. Những nhà trong làng đem gạo đến để trai gái chia nhau theo nhóm để giả và hò hát đối đáp; Thường một điểm hò hát có 2 đến 3 cối giã gạo, mỗi cối có 3 đến 4 chày (chày tay thì không có cán, còn chày vồ thì có cán). Nam, nữ đều tham gia giã gạo, phải là người nhanh trí, thông minh, tìm được lời đối đáp hợp vần, sát ý với lời hò của đối phương đưa ra...Những cuộc hò hát đối đáp, chọc ghẹo, chọc tức, khích lệ như vậy liên tục diễn ra cho đến khi cối gạo được giã trắng. Hết cối gạo này lại sang cối khác, những cuộc hò hát đối đáp kéo dài tới khuya. Những đêm hát như vậy thu hút đông đảo người lân cận đến xem, cổ vũ, làm cho cuộc sống thêm sôi động, bớt vất vả, nhọc nhằn. Sau này, hình thức văn nghệ mang tính dân gian này bị mai một dần, rồi mất hẳn, khiến các vị cao niên có những hoài niệm và nuối tiếc khôn nguôi. Bởi nền kinh tế thị trường, bởi thời đại khoa học công nghệ sẽ kéo theo những hình thức văn nghệ hiện đại, không còn ngọn đèn măng song, đuốc lồ ô, đèn chai trong những đêm văn nghệ làng xã. Hình ảnh cây đa, giếng nước, sân đình thời nay ở nhiều vùng quê thôn dã không còn như ngày xưa, khi mà nhiều nơi làng lên phố. Có nơi, nông thôn đã đô thị hóa một trăm phần trăm, giếng nước, sân đình chỉ còn trong ký ức người xưa. Những trò vui ngày tết ở nhiều làng quê cũng mai một dần, chỉ tồn tại chiếu lệ, có nhiều nơi mất hẳn; Bởi lớp người hiện đại không quan tâm những trò vui thời trước, với lại lớp người xưa rành về các trò chơi mang tính dân gian đã lần lượt thưa thớt theo thời gian. Nét quê xưa của nông thôn Việt Nam dần dần sẽ chỉ còn lại trên những tác phẩm văn chương, trong sách của những nhà sưu tầm, nghiên cứu, trong các chương trình sân khấu hoài niệm mà thôi...

Du xuân về làng Nam Phú mới thấy được một bức tranh thôn quê ngày tếtdiễn ra sôi động, náo nhiệt một góc trời, gợi cho người ta nhớ về hình ảnh làng quê xưa. Với làng Nam Phú, ngày hội chạy cù mở đầu một năm phấn chấn, để rồi mọi người trở lại với cuộc sống lao động trên ruộng, trên nương, người đi làm ăn khác xứ, người công tác xa,đăm đắm hình bóng quê nhà trong ký ức, để rồi cố gắng vươn lên, vượt qua mọi khó khăntrong cuộc mưu sinh. Qua bao nhiêu dâu bể cuộc đời, dù cuộc sống sang nhiều trang mới, nhưng cốt cách, tấm lòng của người dân Phú Mỹ xưa còn thấp thoáng trong mỗi gia đình làng Nam Phú hôm nay. Làng ở đâyvẫn còn lưu giữ được những nét của làng Việt cổ từ thuở ban đầu mang tên Phú Mỹ. Cuộc sống của làng biến đổi theo thời gian cùng sự đổi thay nhanh chóng của quê hương, đất nước, nhất là giai đoạn xây dựng nông thôn mới hiện nay, nhưng con dân của làng vẫn giữ lại những nét hồn cốt của vùng đất mà các bậc tiền nhân để lại. Du xuân đến một vùng quê còn mang dáng dấp làng Việt xa xưa, gợi cho mỗi chúng ta nhớvề miền ký ức, nơi đất tổ,quê cha trong tâm tưởng khôn nguôi.

                                                                                                             L N H


NGUYỄN HOÀNG VỚI BÀI HỌC VƯỢT QUA HIỂM HỌA, DỰNG XÂY NGHIỆP LỚN

NGUYỄN HOÀN

Nguyễn Hoàng sinh ngày 28 tháng 8 năm 1525, tức ngày 10 tháng 8 năm Ất Dậu, mất ngày 20 tháng 7 năm 1613, tức ngày 3 tháng 6 năm Quý Sửu, thọ 89 tuổi, trong đó có 56 năm (1558 - 1613) làm trấn thủ Thuận Hoá rồi sau đó kiêm trấn thủ Quảng Nam. Trải 56 năm dựng nghiệp, Nguyễn Hoàng đã làm nên những công tích to lớn, hiển hách, xứng danh là vị chúa mở cõi đầu tiên của các chúa Nguyễn.

Nghiên cứu lịch sử là nghiên cứu những bài học và kinh nghiệm của lịch sử để lại. Lịch sử chỉ xảy ra có một lần, nhưng những bài học và kinh nghiệm của lịch sử để lại cần phải học mãi để làm giàu vốn liếng tích lũy và trải nghiệm từ quá khứ nhằm tạo nguồn lực vững tiến tới tương lai. Nghiên cứu về Nguyễn Hoàng dựng nghiệp tại Quảng Trị, thiết nghĩ là nằm trong mục đích đó.

Trong cuộc đời thăng trầm lạ lùng của mình, Nguyễn Hoàng đã để lại cho đời những bài học và kinh nghiệm thành công nào?

Nuôi chí lớn và truyền chí lại

Nguồn hun đúc nên chí lớn của Nguyễn Hoàng chính là truyền thống gia đình, dòng tộc. Nguyễn Hoàng xuất thân từ một gia đình danh giá ở Thanh Hóa. Dòng tộc Nguyễn Hoàng có thủy tổ là Định Quốc Công Nguyễn Bặc, vị khai quốc công thần của nhà Đinh, từng giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân.

Theo "Phủ biên tạp lục”của Lê Quý Đôn và "Việt sử xứ Đàng Trong”của Phan Khoang, tiên tổ của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Công Duẩn, người Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn, Thanh Hóa, có công giúp vua Lê Thái Tổ (tức vua Lê Lợi) định thiên hạ, làm quan đến Phụng thần vệ tướng quân Gia đình hầu, được tặng Thái bảo Hoành quốc công.

Con Nguyễn Công Duẩn là Nguyễn Đức Trung, đời vua Lê Nhân Tông, làm Điện tiền chỉ huy sứ, cùng với Nguyễn Xí diệt nghịch đảng, rước lập vua Lê Thánh Tông lên ngôi, làm quan đến Đô đốc Trinh quốc công, có nhiều công trạng, khi mất được tặng Thái uý Trinh quốc công. Con gái Nguyễn Đức Trung (có tài liệu ghi tên là Nguyễn Thị Hằng) làm tiệp dư của vua Lê Thánh Tông, sinh ra vua Lê Hiến Tông.

Con Nguyễn Đức Trung là Nguyễn Văn Lãng tinh thông thao lược, giỏi thiên văn, có sức khỏe bắt được hổ. Lúc đang làm Thuỷ quân vệ Chỉ huy sứ, giữ thành Tây đô, thấy vua Lê Uy Mục vô đạo, bèn tập hợp quân ở phủ Thanh Hoá, tôn Lê Tương Dực lên ngôi vua, vây hãm kinh thành, giết vua Lê Uy Mục. Nguyễn Văn Lãng được phong Thái uý Nghĩa quốc công, Bình chương quân quốc trọng sự, lúc mất được tặng Nghĩa huân vương.

Con Nguyễn Văn Lãng là Nguyễn Hoằng Dũ, làm quan đến Đô đốc An hoà hầu, có tài văn võ, đánh giặc Trần Cảo. Nghe tin Nguyên quận công Trịnh Duy Sản giết vua Lê Tương Dực, bèn đem quân đến đốt kinh thành. Trịnh Duy Sản sợ, rước lập vua Lê Chiêu Tông lên ngôi, vào Tây đô, do kinh thành đã bị tàn phá. Thấy triều đình bỏ kinh đô, Trần Cảo đem quân đến chiếm, tiếm hiệu làm vua. Nguyễn Hoằng Dũ đánh tan Trần Cảo, lấy lại kinh thành.

Con Nguyễn Hoằng Dũ là Nguyễn Kim, thân phụ của Nguyễn Hoàng.

Theo "Đại Nam thực lục”, thân phụ của Nguyễn Kim, húy là Dụ. Lên 8 tuổi đã biết làm văn, 18 tuổi thông thuộc võ nghệ. Dưới thời Lê Hiến Tông, làm Kinh lược sứ Đà Giang. Lúc thấy Lê Uy Mục vô đạo, bèn giúp Lê Oanh khởi binh ở Thanh Hóa, giữ yên xã tắc. Lúc Lê Oanh lên làm vua, tức vua Lê Tương Dực, được phong làm thái phó Trừng quốc công.

Theo "Nguyễn Phúc tộc thế phả”, NXB Thuận Hóa, Huế, 1995, tiên tổ Nguyễn Hoàng, tính từ đời Nguyễn Công Duẩn đến Nguyễn Kim, có những điểm khác với cách viết của Lê Quý Đôn, của "Đại Nam thực lục”và Phan Khoang.

Viết về Nguyễn Công Duẩn, "Phủ biên tạp lục”, "Việt sử xứ Đàng Trong”"Nguyễn Phúc tộc thế phả” đều nêu bật công lao của ông đối với vua Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn, nhưng "Nguyễn Phúc tộc thế phả” viết kỹ hơn. Theo "Nguyễn Phúc tộc thế phả”, Nguyễn Công Duẩn đã cung cấp cho nghĩa quân của Lê Lợi hàng nghìn thạch thóc, hàng trăm bao muối; giúp vận chuyển lương thực, vũ khí; giúp đem binh giải vây, đuổi giặc; giữ cửa ải Lê Hoa, Lào Cai, chống nhau với giặc Minh. Khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, vua Lê Thái Tổ đã tuyên dương công trạng Nguyễn Công Duẩn: "Nhà ngươi không lười điều binh, tiến lương, vào ra nguy hiểm không quản sống chết. Nhớ công ngươi bẻ gãy ngọn giáo, làm quằn lưỡi gươm quân thù, thừa thắng đánh giặc, một mình rong ruổi đông tây, ngăn sông phá núi để lo nạn nước. Công lao ngươi mọi người đều biết, thật là cảm kích” (1). Nguyễn Công Duẩn được xếp vào hàng khai quốc công thần bình Ngô và được ban quốc tính họ Lê.

Nguyễn Công Duẩn cũng có người con tên là Nguyễn Đức Trung (như Phan Khoang đã viết), nhưng Nguyễn Đức Trung không nằm trong dòng trực hệ sinh ra Nguyễn Hoàng về sau mà vị trí này, theo Nguyễn Phúc tộc thế phả, thuộc về một người con khác của Nguyễn Công Duẩn, đó là Nguyễn Như Trác. Nguyễn Như Trác làm quan dưới hai triều vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) và Lê Hiến Tông (1497 - 1504), chức Tham đốc, tước Hầu.

Con Nguyễn Như Trác là Nguyễn Văn Lựu (cũng đọc là Lưu). Hiếu học từ bé, 8 tuổi biết làm văn, 15 tuổi tinh thông võ nghệ. Dưới triều vua Lê Hiến Tông, giữ chức Kinh lược sứ Đà Giang. Đời vua Lê Tương Dực (1509 - 1516), biến loạn xảy ra, Trần Cảo chiếm lấy Đông Đô. Nguyễn Văn Lựu đem quân từ Thanh Hóa ra đánh chiếm lại Đông Đô, rước vua Lê Tương Dực về. Nguyễn Văn Lựu được phong làm Thái tể Trừng quốc công.

Con Nguyễn Văn Lựu là Nguyễn Kim, "Nguyễn Phúc tộc thế phả” đọc là Nguyễn Cam và cho rằng, theo phát âm của Khang Hy tự điển, chữ lâu nayquen đọc là "Kim”, phải đọc là "Cam” mới đúng.

Dù phả hệ từ Nguyễn Công Duẩn đến Nguyễn Hoàng còn có những cách viết khác nhau, không thống nhất, nhất là việc xác định ai là thân phụ của Nguyễn Kim: Nguyễn Hoằng Dụ hay Nguyễn Văn Lựu, nhưng rõ ràng, sử sách, kể cả sách của Lê Quý Đôn, một sử thần của chúa Trịnh đều khẳng định công lao giúp vua, giúp nước của dòng tộc đã sinh ra Nguyễn Hoàng.

Thân phụ của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Kim, làm Hữu vệ điện tiền tướng quân, An thành hầu. Khi xảy ra sự biến Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Lê, Nguyễn Kim đã tránh sang Lào, xây dựng lực lượng, nuôi chí khôi phục nhà Lê. Nguyễn Kim đã đem quân về nước, đánh thắng quân Mạc nhiều trận. Năm 1533, Nguyễn Kim tìm được người con trai nhỏ của vua Lê Chiêu Tông, tên là Ninh đang sang Lào tránh nạn, tôn lên làm vua, tức là vua Lê Trang Tông. Lúc Nguyễn Kim tránh sang Lào, Nguyễn Hoàng mới lên 2 tuổi, được cậu ruột là Nguyễn Ư Dĩ nuôi dưỡng. Lúc Nguyễn Hoàng 20 tuổi, Nguyễn Ư Dĩ thường khuyên Nguyễn Hoàng lập công danh sự nghiệp. Nguyễn Hoàng làm quan dưới triều Lê, lúc đầu được phong là Hạ Khê hầu, cầm quân đánh Mạc Phúc Hải (con trưởng Mạc Đăng Doanh), chém được tướng là Trịnh Chí ở huyện Ngọc Sơn, được vua khen: "Thực là cha hổ sinh con hổ”. Đến đời vua Lê Trung Tông, do có quân công, Nguyễn Hoàng được phong Đoan quận công. Khi vào trấn nhậm Thuận Hóa, được sự giúp sức của Nguyễn Ư Dĩ, Nguyễn Hoàng có điều kiện để thực hiện trọn vẹn lời khuyên của người cậu ruột.

Chí lớn hun đúc từ tiền nhân đã được Nguyễn Hoàng nuôi dưỡng và sớm truyền lại cho con cháu. Năm 1602, Nguyễn Hoàng giao Nguyễn Phúc Nguyên, người con thứ sáu làm trấn thủ dinh Quảng Nam, nơi đất tốt, dân đông, sản vật giàu có, số thuế nộp nhiều hơn Thuận Hóa, đặc biệt, nơi đây có núi Hải Vân, được Nguyễn Hoàng đánh giá là "đất yết hầu của miền Thuận Quảng”. Nhờ được giao trọng trách ở một vùng đất đặc biệt như vậy mà Nguyễn Phúc Nguyên đã sớm được tôi luyện, thử thách và trở thành vị Chúa Sãi anh minh, lập nên những kỳ tích cho Đàng Trong. Lúc sắp từ giã cõi đời, Nguyễn Hoàng đã gọi Nguyễn Phúc Nguyên và các cận thần đến bên giường bệnh để căn dặn: "Ta với các ông cùng nhau cam khổ đã lâu, muốn dựng lên nghiệp lớn. Nay ta để gánh nặng lại cho con ta, các ông nên cùng lòng giúp đỡ, cho thành công nghiệp”, "Đất Thuận Quảng phía bắc có núi Ngang (Hoành Sơn) và sông Gianh (Linh Giang) hiểm trở, phía nam ở núi Hải Vân và núi Đá Bia (Thạch Bi sơn) vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng” (2). Quyết chí nối nghiệp Nguyễn Hoàng, các chúa Nguyễn đã tiếp tục mở mang lãnh thổ về phía Nam, xác lập vững chắc chủ quyền trên vùng đất mới, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đưa nước ta có lãnh thổ hoàn chỉnh như hiện nay.

Vượt qua hiểm họa, chuyển họa thành phúc

Có chí rồi, phải có mưu lược thì chí mới thành. Bài học cốt tử của cuộc đời Nguyễn Hoàng, đó là biết vượt qua hiểm họa, chuyển họa thành phúc. Cổ nhân bảo "trong họa có phúc”, điều này quả đã ứng vận trọn vẹn vào cuộc đời Nguyễn Hoàng. Mối họa của cuộc đời Nguyễn Hoàng không nằm ở đâu xa mà nằm ngay từ chính ông anh rể của Nguyễn Hoàng là Trịnh Kiểm. Phủ biên tạp lụccủa Lê Quý Đôn cho rằng sau khi Nguyễn Kim mất (do ăn phải quả dưa có thuốc độc của hàng tướng Dương Chấp Nhất), "bọn Lãng quận công (chỉ anh em Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng - chú thích của người viết) ngờ vua có mưu gì, toan làm loạn. Thế tổ Trịnh Kiểm… rước vua đến bản dinh, xin hết sức giúp đỡ. Lại hiểu dụ bọn Lãng quận công bỏ hết hiềm khích” (3). Ở đây, Lê Quý Đôn khẳng định rõ ràng có sự "hiềm khích”, nhưng không nói rõ ra là anh em Nguyễn Hoàng hiềm khích với ai, với vua Lê, hay là với cả vua Lê và Trịnh Kiểm. Chẳng lẽ anh em Nguyễn Hoàng lại hiềm khích với vua Lê? Ngược lại, Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn cho rằng mối hiềm khích này là từ Trịnh Kiểm mà ra:"Từ khi Triệu Tổ Tĩnh hoàng đế ta (chỉ Nguyễn Kim - chú thích của người viết) mất đi, bỏ dở công to nghiệp lớn, quyền bính trọng yếu trong nước đều do Trịnh Kiểm chuyên chế cầm nắm. Lãng quận công Uông làm tả tướng. Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế ta (chỉ Nguyễn Hoàng - chú thích của người viết) thì cầm quân đánh dẹp, lập được nhiều chiến công, được phong đến Đoan quận công. Cả hai đều bị Trịnh Kiểm nghi kỵ. Rồi Tả tướng bị Kiểm làm hại. Còn Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế ta thì tự lắng xuống, kín đáo giữ mình” (4). Nguyễn Ư Dĩ biết chuyện, bèn khuyên Nguyễn Hoàng giả bệnh điên, có những cử chỉ thất thường để Trịnh Kiểm hết nghi ngờ. Sau khi cho người đến hỏi Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm về cách tránh họa và được Trạng Trình "mách nước”: "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”(một dải núi ngang, có thể dung thân muôn đời), Nguyễn Hoàng đã tìm được lối thoát họa, đó là phải lánh mình ở phương xa. Được Nguyễn Ư Dĩ bàn bạc: "Thuận Hóa là đất hiểm trở kiên cố, có thể giữ mình được. Vậy nên nhờ chị là Ngọc Bảo (Ngọc Bảo là con gái Triệu Tổ và là chánh phi Trịnh Kiểm) nói với Kiểm, xin vào trấn thủ Thuận Hóa, rồi sau sẽ mưu làm việc lớn” (5), Nguyễn Hoàng đã cậy chị ngỏ lời cùng Trịnh Kiểm, xin cho đi vào phương xa. Thuận theo lời xin của vợ, Trịnh Kiểm đã dâng biểu tâu vua Lê Anh Tông cho Nguyễn Hoàng vào làm trấn thủ đất Thuận Hóa. Nhân việc cho Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa, Trịnh Kiểm muốn bắn một mũi tên mà trúng nhiều đích: vừa được lòng vợ và em vợ; vừa được tiếng với vua Lê là dùng người tài trí, mưu lược trấn giữ nơi vùng đất có "hình thể quan trọng”; lại vừa mượn xứ Thuận Hóa là nơi lam chướng nước độc, nơi quân nhà Mạc đang khuấy động để biết đâu trừ khử được Nguyễn Hoàng. Nhưng Trịnh Kiểm đã lầm với một người có chí lớn và biết chuyển họa thành phúc như Nguyễn Hoàng. "Trịnh Kiểm chỉ có ý tống khứ một địch thủ. Nhưng ông đã đi sai nước cờ. Và thay vì tống khứ, ông lại đã cho không Nguyễn Hoàng một vương quốc. Và một chuỗi các sự kiện diễn ra đã làm thay đổi toàn bộ lịch sử Việt Nam nói riêng và lịch sử Đông Nam Á nói chung” (6).

Sau khi đã vào Ái Tử, Nguyễn Hoàng còn gặp nhiều mối họa khác và đều tìm cách vượt qua được. Theo "Đại Nam thực lục”, năm 1571, Trịnh Kiểm đã mật sai tham đốc Mỹ Lương, thự vệ Văn Lan và Nghĩa Sơn (3 vị này nhờ đóng thóc cho nhà Lê mà được làm quan) đánh úp Nguyễn Hoàng nhưng thất bại, Mỹ Lương bị chém, Nghĩa Sơn bị bắn chết, Văn Lan trốn chạy (ở đây "Đại Nam thực lục”đã nhầm, vì Trịnh Kiểm đã mất từ năm 1570, nên việc mật sai này có lẽ là của Trịnh Tùng, con Trịnh Kiểm). Năm 1572, tướng Mạc là Lập Bạo đem 60 binh thuyền vượt biển vào đánh cướp nhưng đã bị Nguyễn Hoàng dẹp tan, Lập Bạo bị giết. Năm 1592, vua Lê sai Trịnh Tùng đánh dẹp Mạc Mậu Hợp, lấy lại được Đông Đô Thăng Long, Nguyễn Hoàng ra kinh yết kiến, mừng vua Lê. Trải qua 8 năm ở Đông Đô, Nguyễn Hoàng đã giúp vua đánh dẹp quân Mạc, bọn tướng làm phản và thổ phỉ, lập nhiều công to. "Trịnh Tùng thấy thế mang lòng ghen ghét, 8 năm không cho về trấn. Gặp lúc ấy, bọn Ngạn, Đình Nga và Văn Khuê làm phản ở cửa biển Đại An, Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế ta nhân đem quân tiến đánh, bèn đem tướng sĩ thuyền chiến trong bộ thuộc mình, phóng ra biển về Thuận Hóa” (7).

Để vượt qua hiểm họa, ngoài việc tìm cách lánh họa ngay trên chính mảnh đất hiểm trở, tìm cách chống chọi, đánh thắng địch họa, Nguyễn Hoàng đặc biệt còn tìm cách hóa giải các mối họa, thông qua ứng phó khôn khéo, đối ngoại mềm dẻo. Khi về lại Thuận Hóa, sau 8 năm ở Đông Đô, với vua Lê, Nguyễn Hoàng đã để con trai thứ năm là Nguyễn Hải và cháu là Nguyễn Hắc ở lại làm con tin. Tuy vậy, sau khi Nguyễn Hoàng trở về, Trịnh Tùng đã gửi thư dọa trách: "Mới đây bọn nghịch thần Phan Ngạn, Bùi Văn Khuê, Ngô Đình Nga manh tâm bội phản, cháu và cậu đã lo liệu việc binh, sai đi đánh dẹp, chẳng ngờ cậu không đợi mạng, tự ý bỏ về, làm dao động nhân dân, không biết ấy là ý của cậu, hay là mắc kế bọn kia… Cậu, trong việc binh, thường lưu tâm đến kinh sử, xin hãy xét nghĩ lại, đừng để hối hận về sau”(8). Để làm dịu tình hình, Nguyễn Hoàng đã viết thư cho Trịnh Tùng hẹn kết nghĩa thông gia. Mùa đông năm 1600, Nguyễn Hoàng đã gả con gái là Ngọc Tú cho Trịnh Tráng, con cả của Trịnh Tùng (Trịnh Tráng lấy Ngọc Tú, tức là cháu mà lấy cô). Từ đó trở đi, Nguyễn Hoàng không ra Đông Đô nữa, khiến triều thần nhà Lê đòi xử trí, "nhưng Trịnh Tùng sợ việc dùng binh, không dám đả động” (9). Chắc rằng mối quan hệ cháu lấy cô "vượt ngoài khuôn khổ” giữa Trịnh Tráng và Ngọc Tú đã góp phần hóa giải, xua tan âm mưu động binh.

Thông qua việc hóa giải hiểm họa, chuyển họa thành phúc, Nguyễn Hoàng đã tạo được cội phúc vững bền, dài lâu cho các chúa Nguyễn thừa hưởng ân sủng, trong đó đặc biệt chúa Nguyễn Phúc Nguyên không chỉ thừa hưởng mà còn có công lớn vun bồi cội phúc này phát triển, ngay chính từ đất Quảng Trị. Cội phúc này lan tỏa cả đến những người nhà Mạc đang gặp họa, trong đó có người vợ họ Mạc của Nguyễn Phúc Nguyên. Mạc Cảnh Huống (em Khiêm vương Mạc Kính Điển, người đã từng đem quân vào đánh Thanh Hóa, Nghệ An năm 1570) đã theo Nguyễn Hoàng vào Ái Tử năm 1558, làm Thống binh, tham mưu đắc lực, được Nguyễn Hoàng tin dùng. Theo khảo cứu của L.Cadière (10), vào khoảng năm 1593, lúc nhà Mạc suy yếu, bị đánh đuổi khỏi vùng đồng bằng miền Bắc, phải chạy lên Cao Bằng, con gái Mạc Kính Điển là bà Mạc Thị Giai đã cùng gia quyến theo chú là Mạc Cảnh Huống vào ẩn ở chùa Lam Sơn, làng Cổ Trai, xã Vĩnh Giang, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, nhập tịch ở tỉnh Quảng Trị. Được bà Nguyễn Ngọc Dương, vợ Mạc Cảnh Huống (bà Dương là em vợ Nguyễn Hoàng, tức là dì ruột của Nguyễn Phúc Nguyên) tiến vào hầu Nguyễn Phúc Nguyên ở nơi tiềm để (chỗ ở của chúa khi chưa lên ngôi), bà Mạc Thị Giai đã được Nguyễn Phúc Nguyên yêu, quý trọng vì tính tình thuần hậu, đoan trang và đã lấy làm vợ. Sau này, bà được đổi sang họ Nguyễn và được tôn là Hiếu Văn Hoàng hậu. Bà sinh được 5 con trai và 3 con gái. Đặc biệt, trong số này, có 2 người con gái đã được Nguyễn Phúc Nguyên gả cho vua các nước lân bang để mở mang quan hệ đối ngoại. Năm 1620, Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái là Nguyễn Phúc Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II. Nhờ ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc hôn nhân này, năm 1623, một phái bộ của chúa Nguyễn Phúc Nguyên đi sứ đến Chân Lạp đề nghị được lập cơ sở, được đặt một sở thu thuế hàng hóa ở Prey Kôr, tức thành phố Hồ Chí Minh ngày nay và đã được Chey Chetta II đồng ý. Năm 1631, Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái là Nguyễn Phúc Ngọc Khoa cho vua Chiêm Thành là Pôrômê, nhằm tạo mối quan hệ giao hảo Việt-Chiêm, bảo đảm an ninh mặt phía Nam cho chúa Nguyễn. Theo L.Cadière, làng Cổ Trai đã ghi nhận và đánh giá rất cao công lao của bà Mạc Thị Giai đối với làng, sau khi bà qua đời, làng Cổ Trai đã sửa ngôi chùa Lam Sơn thành đền thờ để thờ cúng bà (11). Năm 1824, vua Minh Mạng cho đổi đền thờ này thành chùa Phật: "Cho xã Cổ Trai (thuộc huyện Minh Linh, Quảng Trị) 300 quan tiền. Cổ Trai là làng thích lý của Hiếu Văn Hoàng hậu, trước dân làng cảm ân đức Hoàng hậu lập đền thờ, đến nay tự nghĩ không dám thờ nhảm, tâu xin đổi làm chùa Phật. Vua theo lời xin và cho tiền” (12). Rõ ràng, ân đức của bà Mạc Thị Giai, tức Nguyễn Thị Giai, Hiếu Văn Hoàng hậu không chỉ nhuần thấm với đất Cổ Trai mà ân đức đó cả Đàng Trong và đất nước đều được thụ hưởng, khi bà đã cống hiến cho dân tộc hai liệt nữ Ngọc Vạn, Ngọc Khoa. Như vậy, việc chuyển họa thành phúc, đặc biệt là chuyển họa của cá nhân, dòng họ của Nguyễn Hoàng thành phúc của Đàng Trong, phúc của dân tộc đã diễn ra một cách kín đáo, khéo léo và thành công trên đất Quảng Trị và từ Quảng Trị.

Nhờ biết giữ mình, lánh họa, vượt qua hiểm họa, chuyển họa thành phúc, Nguyễn Hoàng đã đặt nền móng quan trọng cho công cuộc phát triển Đàng Trong, mở cõi của các chúa Nguyễn, bắt đầu bằng việc đặt phủ Phú Yên năm 1611. Từ năm 1611 dưới thời chúa Nguyễn Hoàng đến năm 1757 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, trong vòng 146 năm, đất nước đã được mở rộng từ Phú Yên đến Cà Mau.

Dựa vào lòng dân, vỗ về dân, yên dân

Để trụ vững ở nơi hiểm trở, nếm mật nằm gai, Nguyễn Hoàng đã dựa vào lòng dân. Lúc Nguyễn Hoàng cùng những người đồng hương ở Tống Sơn, những người nghĩa dũng ở Thanh Hóa mới vào đến bãi cát Ái Tử (theo một nguồn dẫn của Phan Khoang, Nguyễn Hoàng đến Ái Tử trong khoảng từ ngày 10/11 đến 10/12/1558), người dân ở đây đã đem dâng 7 chum nước trong. Nguyễn Ư Dĩ mừng rỡ nói: "Đấy là phúc trời cho đó. Việc trời tất có hình tượng. Nay chúa thượng mới đến mà dân đem "nước” dâng lên, có lẽ là điềm "được nước” đó chăng?” (13).Nhờ có chính sách vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng của Nguyễn Hoàng, bộ mặt vùng đất hiểm trở mà Nguyễn Hoàng trấn nhậm, chỉ sau hơn 10 năm đã có nhiều thay đổi rõ rệt. Đánh giá về tài trí, đức độ Nguyễn Hoàng, nhà bác học Lê Quý Đôn viết: "Đoan quận công có uy lược, xét kỹ, nghiêm minh, không ai dám lừa dối. Cai trị hơn mười năm, chính sự khoan hòa, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, dùng phép công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quân dân hai xứ thân yêu tin phục, cảm nhân mến đức, dời đổi phong tục, chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang, ai cũng cố gắng, trong cõi đều an cư lạc nghiệp” (14), "công lao khó nhọc, thực như phên dậu của nhà nước” (15). Quốc sử quán triều Nguyễn viết: "Bấy giờ chúa ở trấn hơn 10 năm, chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân dân đều yên cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp” (16). Với tầm nhìn xa của người mở cõi, năm 1597, Nguyễn Hoàng (lúc này đang ở đất Bắc giúp vua Lê ứng phó với quân Mạc và bang giao với nhà Minh) đã có công văn lệnh cho Lương Văn Chánh, Tri huyện Tuy Viễn, trấn An Biên (nay thuộc tỉnh Bình Định) chiêu tập lưu dân vào khai khẩn vùng đất Phú Yên, đồng thời căn dặn không được sách nhiễu dân: "Kết lập gia cư địa phận, khai khẩn ruộng đất hoang cho tới khi thành thục sẽ nạp thuế như lệ thường. Nhược bằng vì việc mà nhiễu dân, điều tra ra sẽ bị xử tội”.

Người biết thu phục lòng dân, ắt được nhân dân che chở, giúp vượt qua hiểm họa. "Đại Nam nhất thống chí”xếp bà Phạm Thị Tôm, người huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình vào hàng liệt nữ vì có công cứu nguy cho Nguyễn Hoàng. Năm 1600, từ đất Bắc, Nguyễn Hoàng cùng tướng sĩ dong thuyền ghe theo đường biển về lại Thuận Hóa. Quân Trịnh đuổi theo. Thủy quân Nguyễn Hoàng phải chèo thuyền thật gấp, bị đứt quai chèo. "Lúc ấy Thị Tôm theo hầu, nhân có một mớ tơ sống, thị liền dâng để buộc chèo. Về đến nơi thị chết, Gia Dụ hoàng đế khen là có công, truy tặng Thị giá phu nhân, lập đền thờ dinh Cát. Dinh Cát nay thuộc Quảng Trị” (17).

Đáng chú ý, có những câu chuyện về "thế trận lòng dân” mà Nguyễn Hoàng xây dựng nên đã được sử sách kể lại mang màu sắc tín ngưỡng, huyền thoại. Đó là chuyện Nguyễn Hoàng lúc đóng quân bên sông Ái Tử để chống giặc Lập Bạo đã nghe vẳng lên từ lòng sông có tiếng "trao trao”, liền khấn thần sông giúp sức đánh giặc và được thần sông báo mộng, thông qua hình ảnh một người đàn bà mặc áo xanh, tay cầm quạt, đến thưa rằng: "Minh công muốn trừ giặc thì nên dùng mỹ kế dụ đến bãi cát, thiếp xin giúp sức”. Sau khi dùng kế mỹ nhân để diệt Lập Bạo, Nguyễn Hoàng đã phong thần sông làm "Trảo trảo linh thu phổ trạch tướng hựu phu nhân” và lập đền thờ. Năm 1601, Nguyễn Hoàng cho dựng chùa Thiên Mụ. Khi Nguyễn Hoàng đến đây, hỏi chuyện, được nhân dân địa phương truyền rằng: "Xưa có người đêm thấy bà già áo đỏ quần xanh ngồi trên đỉnh gò nói rằng: "Sẽ có vị chân chúa đến xây chùa ở đây, để tụ khí thiêng, cho bền long mạch”. Nói xong bà già biến mất. Bấy giờ nhân đấy mới gọi là núi Thiên Mụ. Chúa cho là núi ấy có linh khí, mới dựng chùa gọi là chùa Thiên Mụ” (18). Thông qua những chuyện kể như vậy cho thấy, khả năng thu phục lòng dân, huy động sức mạnh nhân dân của Nguyễn Hoàng đã được "siêu nhiên hóa”, "thiêng hóa”. Nói cách khác, Nguyễn Hoàng đã dựa vào tín ngưỡng, Phật giáo… nhằm "thiêng hóa” sức mạnh thu phục lòng dân của mình.

Không chỉ dựa vào dân, Nguyễn Hoàng còn "làm ơn cho dân”, vỗ về dân, yên dân, đặc biệt là biết "biến giặc thành dân”. Sau khi sai thuộc tướng là Mai Đình Dũng dẹp yên bọn thổ mục nổi loạn, cướp giết lẫn nhau ở Quảng Nam, Nguyễn Hoàng đã giao Mai Đình Dũng ở lại giữ đất và thu phục, vỗ yên tàn quân. Sau khi đánh thắng giặc Lập Bạo, Nguyễn Hoàng đã không giết hàng binh mà cho họ quyền được sống và khai phá vùng đất mới: "Chúa cho ở đất Cồn Tiên (tức tổng Bái Ân bây giờ) đặt làm 36 phường” (19).Cảm kích trước ân nghĩa lớn lao của Nguyễn Hoàng, về sau, thế hệ con cháu của những người được "tha mạng sống” ở các phường An Định Nha, An Hướng và Phương Xuân thuộc tổng Bái Ân đã dựng miếu thờ Nguyễn Hoàng ở An Định Nha (nay là thôn An Nha, xã Gio An, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị).

Mở mang ngoại thương, hướng tầm nhìn ra biển

Nắm được lòng dân và dân đã thuận theo mình, để đưa Đàng Trong phát triển, bài học và kinh nghiệm thành công, kinh nghiệm phát triển của Nguyễn Hoàng, đó là mở mang ngoại thương, hướng tầm nhìn ra biển. Dưới thời Nguyễn Hoàng, "thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên một nơi đô hội lớn” (20). Đặc sản tiêu Quảng Trị đã được Nguyễn Hoàng cho mua, chở cùng vây cá yến sào để đổi cho khách buôn lấy hàng hóa, sản vật. Theo Lê Quý Đôn, họ Nguyễn đã mua tiêu Quảng Trị "chở về phố Thanh Hà, bán cho khách tàu, không cho dân địa phương bán riêng” (21), "hồ tiêu cứ cho 100 cân làm một tạ, giá 5, 6 quan, khách Bắc và khách Mã Cao thường buôn về Quảng Đông” (22). Để chủ động "xúc tiến thương mại”, khuyến khích thương gia Nhật Bản đến buôn bán với Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đã viết nhiều thư trao đổi, bàn bạc chuyện buôn bán với chính quyền Tokugawa (chính quyền quân sự ở Nhật Bản). Lời lẽ trong các lá thư ngoại giao vừa sang trọng, lịch lãm, vừa tha thiết, mềm mỏng, có những thư được gửi kèm theo các món quà tặng là những vật phẩm quý như kỳ nam, lôi mộc, khổng tước… chẳng hạn như thư này:

"An Nam quốc Đại Đô Thống Đoan Quốc Công xin ngỏ lời đến Nhật Bản Quốc vương điện hạ!

Thời gian qua, tình hình kết giao của hai nước diễn ra tốt đẹp. Năm ngoái, Ngài đã tặng tôi bảo kiếm, nay lại còn gửi tặng 10 trường đại đao quý, thật cảm kích vô cùng. Hy vọng thương thuyền của quý quốc làm ăn buôn bán ở nước tôi hanh thông thịnh vượng, có thể thấy đây là chốn an cư. Bản quốc sản vật quý không nhiều nhưng cũng xin kính tặng Quốc Vương điện hạ một ít (có danh mục kèm theo) gọi là lễ mọn.

Từ năm nay trở đi, bản quốc sẽ chú trọng mậu dịch, buôn bán với quý quốc, lấy việc thông thương an toàn làm chữ Nghĩa. Vạn vọng Quốc vương lấy việc kết giao để dựng xây sự phát triển như đã giao ước.

Một lời trong thư khó nói hết, xin được minh giám.

Ngày 11 tháng 5 năm Hoằng Định thứ 5 (Nhật Bản Khánh Trường năm thứ 9 - Tây lịch năm 1605)”(23).

Đặc biệt, Nguyễn Hoàng đã nhận một thương gia Nhật Bản là ông Hunamoto Yabeije (Di Thất Lang) làm con nuôi và viết thư báo cho phía Nhật Bản biết về mối giao hảo tốt đẹp này: "An Nam quốc Đại Đô Thống Đoan Quốc Công báo thư - Nhật Bản Bản Đa Thượng Dã Giới Chính Thuần trân quý! Thư đi thư lại giao hảo đã lâu, tấm lòng đã hiểu. Cảm thần được tính cách trung hậu của Di Thất Lang. Tôi nhận Di Thất Lang làm nghĩa tử; chăm sóc ân cần chu đáo mọi bề. Nay Di Thất Lang trở về quý quốc. Sẽ khôn nguôi nhớ, đành tặng chiếc áo tình cảm để mặc lúc đi đường. Rồi đây trong lòng thương nhớ xiết bao. Hy vọng rằng những tình cảm đó sẽ được chuyển đến Bạch Quốc Vương. Và năm tới như đã hứa Di Thất Lang sẽ chỉnh đốn ba thuyền sớm đến bản trấn giao dịch, như thế là lưỡng toàn ân nghĩa. Có một chút lễ mọn (Bạch quyên 2 thất, Kỳ nam 1 phiến) xin gửi tặng làm tin…

Ngày mồng 6 tháng 5 năm Hoằng định thứ 6 (1606) - Nhật Bản năm Khánh Trường thứ 10”(24).

Theo một nguồn mà nhà nghiên cứu Li Tana đã dẫn cho biết, trong số 84 thuyền Châu ấn của Nhật Bản đến buôn bán với An nam (chủ yếu chỉ Nghệ An ở Đàng Ngoài) và Đàng Trong từ năm 1604 đến 1635, có 70 chiếc đến Đàng Trong. Đáng chú ý, trong số 84 thuyền này, có 17 thuyền do Hunamoto Yabeije (Di Thất Lang), con nuôi Nguyễn Hoàng và Araki Sotaro, thương gia Nhật Bản, con rể Nguyễn Phúc Nguyên cầm đầu (theo Li Tana, năm 1619, Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái cho Araki Sotaro, nhưng có lẽ Nguyễn Phúc Nguyên đã gả con nuôi thì đúng hơn, vì chiếu theo "Nguyễn Phúc tộc thế phả”, trong số tất cả 4 người con gái của Nguyễn Phúc Nguyên, không có ai được gả cho Araki Sotaro cả). Với việc đẩy mạnh ngoại thương, hướng tầm nhìn ra biển, chúa Tiên Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn đã làm cho Đàng Trong hưng thịnh và chính sự hưng thịnh này đã góp phần quyết định tạo nên trọn vẹn dáng hình chữ S của Tổ quốc Việt Nam như ngày nay. Cái gốc, điểm tựa và bệ phóng cho sự phát triển và hưng thịnh đó, chính là mảnh đất Quảng Trị với vai trò quan trọng như A.Laborde, Công sứ Pháp tại An nam trước đây đã nêu qua bài viết "Tỉnh Quảng Trị”, rằng "nếu dòng họ nhà Nguyễn không xuất phát tại Quảng Trị, thì ít nhất sự nghiệp lịch sử của họ phải xem là có gốc từ mảnh đất này” (25), "Con người của triều đại này sinh ra từ đất Thanh Hoá, nhưng sự nghiệp của triều đại Nguyễn thì sinh ra từ đất Quảng Trị” (26).

                                                                                                 NH

CUỐI NĂM---Thơ Nguyễn Văn Chức

cuối năm rót cạn ly gầy

giọt mềm

giọt đắng

gối ngày dương gian

rót thêm

con mắt nồng nàn

rót cay mấy nẻo hèn sang hồng trần

rót ngày vào tháng nhẹ tênh

rót năm vào kiếp… để dành cho không

ly nâng

hợp cẩn mặn lòng

ly buông

cát cứ mấy dòng từ tâm

                                                NVC

DÒNG YÊU DẤU---Thơ Nguyễn Văn Chức

Con về lại lối mòn xưa yêu dấu

Tuổi thơ qua bạc thếch gió nam nồm

Nhớ bóng mẹ già đầu nương cuối bãi

Vết chân cha lam lũ ruộng vườn.

Những bóng tà dương cánh đồng khô hạn

Con trâu kiệt sức cha cày

Mẹ chìm nổi bập bênh ruộng cấy

Hạt cơm thơm bám lát sắn dày.

Thắt thẻo dặm dài theo học

Phong phanh xơ áo mùa đông

Tre pheo cháy khô trời hạ

Con lớn lên… trong rơm rạ đốt đồng.

Nhớ bài toán giải mềm trên cát

Phép bình phương, góc đối, góc bù

Những đêm trăng nằm ngêu ngao hát

Rộng rãi sao trời bát ngát lời ru…

Rồi một chiều trong veo đôi mắt lạ

Người thẹn thùng câu thơ nói lời yêu

Nhớ mênh mang tím ngày vào hạ

Mối tình đầu tha thiết biết bao nhiêu…

Dấu yêu ơi, ngày xưa đôi mắt

Đẹp cho ai hồn vía đến dại khờ…

                                                         NVC

THÁNG TƯ--Thơ Nguyễn Văn Chức

Anh ngỡ ngàng có được tháng tư

Hương cho anh mùa xoan khao khát

Thuở đầu đời tiếng chim về nhặt hạt

Màu hoa râm như tuổi tóc hiền.

Tháng tư ơi, xanh trời hương tóc

Tím bằng lăng xao xuyến góc nhìn

Chiều hẹn con ve sầu rối tiếng

Nụ cười hiền và mắt lung linh.

Ơi đắm đuối cơn mưa đầu hạ

Ngọt ngào em dừng tuổi ngưng tên

Góc phố nhỏ, tên đường chưa đặt

Ngọn gió Lào thao thiết thân quen...

Em thân yêu, tháng tư xoan nở

Mình có nhau là tất cả nghe em!

                                                      NVC


MẸ ƠI---Thơ Nguyễn Văn Chức

Mẹ ơi, tóc bạc ngàn sương

Nuôi con chẳng quản mọi đường gieo neo

Lớn lên con vượt suối đèo

Non cao bì nổi lưng nghèo cút côi

Ca dao quấn quýt tao nôi

Mẹ còn lo bữa cơm sôi thờ chồng

Rau dưa trời đổ cơn dông

Trầu cau cô Tấm ngoài đồng đói no

Đêm trăng đối đáp mẹ hò

Mái nhì mép nước con đò nhẹ tênh

Giêng hai mẹ úp nên phần

Hạt tròn hạt lép, học hành nghe con!

Năm lần sâu cạn vuông tròn

Các con khôn lớn mẹ mòn lời kinh

Lạy trời phật lạy sinh linh

Độ trì tuổi mẹ trăm nghìn dương gian…

                                                        NVC


NỖI NHỚ KHÔNG PHAI--Thơ Lê Ngọc Phái


Nghe anh nói mai về Quảng Trị
Lòng tôi se thắt nhớ tới quê hương
Nhớ núi, nhớ sông, nhớ phố, nhớ phường
Nhớ trường em học, nhớ đường em đi…

Nhớ chợ phiên đò dọc lên Cam Lộ
Những chuyến xe thổ mộ giữa chiều hoang
Người miền xuôi, miền ngược khắp buôn làng
Mang đặc sản địa phương về đủ loại.

Nhớ con đường Chín sớm khuya dầu dãi
Đã mấy trăm năm gắn với con người
Ngọn gió tây nam quằn quại trên vai
Rát da mặt đôi chân mềm vươn mãi.

Nhớ chợ Đông Hà, ngõ về trưa tối
Mẹ mỗi ngày hai buổi với nắng mưa
Nhớ mái hiên xưa cha trồng chậu kiểng
Sáng chiều vui tiêu khiển tuổi già nua.

Nhớ cầu Ga nối Nhan Biều Thạch Hãn
Đường về làng Sáu Tám đến La Duy
Nhớ bến sông Vĩnh Định chiếc cầu ri
Đêm trăng sáng chia tay nhiều hẹn ước.

Nhớ quê hương những ngày mưa bão lụt
Nước tràn về lai láng khắp xóm thôn
Mái nhà tranh lan tỏa khói hoàng hôn
Ôi thương quá làm sao tôi quên được!

Nhớ kỷ niệm những mùa thi năm trước
Mối tình đầu sống mãi với đời tôi
Nhớ vườn xưa của ngoại bóng trăng lơi
Giấu nụ hôn dưới cành cam, cành bưởi.

Dù nơi đâu lòng tôi luôn nhớ tới
Mong sớm được về thăm lại quê hương
Tuổi học trò trang sách ép hoa thơm
Bao hình ảnh thân thương luôn ấp ủ.
                                                      LNP

YÊU MÃI GIO LINH---Thơ Tuyết Mai


Gio Linh quê tôi mùa hè cát nóng
Mùa đông gió lạnh rít từng cơn
Con đường dất đỏ đến Lễ Môn
Nghiêng nghiêng nón em nhìn e ấp.
Ngày ra đi em buồn vương mái tóc
Gíó đèo Ba Dốc thương mãi ngàn năm
Về Cao Xá lúa vàng như ôm ấp
Đất Cát Sơn đã mấy dạo em qua
Tôi yêu Hiền Lương gió bụi nhạt nhòa
Thiên lịch sử muôn đời còn in dấu.
Về chợ cũ thăm Lại An, Mai Xá
Qua trường xưa lòng bỗng thấy nao nao
Tìm thầy cô , bè bạn ở phương nào
Bao kỷ niệm dần về theo năm tháng.
Hà Thượng quê tôi ai có dịp đi qua
Sẽ thấy Cồn Tiên, Dốc Miếu xa xa
Lan Đình, Gia Môn chập chùng trong nắng.
Xin xuôi về thăm Nhĩ Thượng, Hà Thanh.
Ngược Cửa Tùng, Xuân Mỵ đến Hà Trung
Đâu cũng có tình yêu và nỗi nhớ.
Tôi yêu Gio Linh yêu con đường ngọn cỏ
Gio Linh năm xưa Gio Linh của bây giờ
Còn biết bao điều chưa muốn ngỏ
Gio Linh quê ơi thương mấy cho vừa.
                                               TM

NẮNG XUÂN---Thơ Tuyết Mai

Nắng mới xuân tươi đón nhau về

Như hòa chung một giọt rươu quê

Đã từng vui bước bao năm trước

Thế mà nay xuân đã bộn bề.

Xuân ướm thử mình bao nhiêu tuổi

Có còn mơn mởn mộng tình quê

Những ngày nắm ấm mây xanh biếc

Giữ trọn cho nhau một lời thề.

Bao nhiêu năm rồi xuân vẫn thế

Mai vàng nở rộ nắng vườn quê

Trong làn gió thoảng xuân quay gót

Để biết tình xưa đã cận kề.

Nắng có theo về với gió xuân

Xin đem một chút ướp hương thề

Để tròn giấc mộng xuân mơ ước

Thế mà xuân ơi đã bộn bề.

                                                                TM

MÙA SIM TÍM--Thơ Đào Trường San

Tháng sáu sim tím cả đồi

Rủ nhau đi hái cùng ngồi lại ăn

Quê nghèo vất vả khó khăn

Chút may mắn ngọt một năm một lần

Hái sim chân đất, đầu trần

Lon ton chui rúc chỗ gần, chỗ xa

Hè về nắng cháy làn da

Hoe hoe tóc nắng, ui cha mệt nhoài

Mùa sim bụng cứ no hoài

Về nhà ăn uống sơ sài mẹ la

Bây giờ tôi đã đi xa

Trái sim vẫn cứ là cà trong mơ

Mùa sim, mùa của tuổi thơ

Trái sim tím ngọt đến giờ vẫn theo.

                                                   ĐTS

ĐÒ MUỘN--Thơ Đào Trường San

Hoàng hôn loang tím bến chờ

Mặt sông vắng lặng thẩn thờ áng mây

Mặt trời đỏ quạch phía Tây

Hai bờ nín gió hàng cây đứng nhìn

Con đò mệt mỏi nằm im

Bóng cô chèo lái thật xinh đâu rồi

Bến quen ái ngại em ngồi

Chờ con đò muộn một hồi mà lo

Lạy trời đò gắng sang cho

Trước khi tắt nắng, đò co ro..chờ!

                                         ĐTS

·

HOA HỒNG---Thơ Lê Nguyên Hồng

Sinh ra trong mùa đông giá buốt

Phận hoa Hồng khổ đau

Gió mưa giằng xé không thương xót

Giữ thủy chung vẹn màu

Đỏ hết mình dâng hiến

Cho những người yêu nhau…

Vẫn biết"Hồng nhan bạc mệnh”

Niềm riêng giấu tận thẳm sâu

Âm thầm cười trong bất hạnh

Thản nhiên chịu kiếp đa sầu!

Trong nắng trong mưa

Từng mảnh hoa rơi như cánh bướm lụi tàn

·Lặng lẽ tan vào đất

Xanh lên lá cỏ

Để lại cho đời tình yêu, nỗi nhớ

Gửi lại trong mắt người một sắc hồng nguyên

Sớm nay

Nâng những cánh hồng ướt đẫm sương đêm

Anh bỗng thương hoa và chợt hiểu

Hoa trọn đời nở trong gian khổ

Hoa cũng nhạt màu

Chả trách má em phai!

                                             LNH

MƠ---Thơ Lê Nguyên Hồng

Có những lúc ta buồn vô cớ

Lại mơ về một nhánh trúc xinh

Trưa đổ lửa mơ về ngọn gió

Trong khát khô mơ con suối hiện hình…

Điều giản dị trong từng mơ ước nhỏ

Nuôi hồn ta theo năm tháng vui buồn

Đã có lúc trên đường đời vấp ngã

Ta lại mơ… lòng đỡ buồn hơn!

                                                  LNH

THƯƠNG QUÊ—Thơ Lê Luynh

Về thăm nội mùa xuân

Vùng quê nghèo Quảng Trị

Hàng dương xanh hùng vĩ

Đứng hiên ngang giữ làng

Bão hàng năm xếp hàng

Thương dân lành chịu khổ

Miền trung đầy nắng gió

Đất cằn khô bạc màu

Ông cười bảo quê giàu

Thiên tai và dịch họa

Cháu con giờ đi cả

Toàn người già sống vui

Cháu nghe mà ngậm ngùi

Thương quê nghèo chi lạ

Đất cày lên sỏi đá

Biết bao giờ giàu sang

                                      LL

CHỢ QUÊ—Thơ Bùi Thảo Khuyên

Chợ quê mở trước cổng đình
Bao đời nay vẫn một hình bóng xưa
Chợ chiều nhóm lúc giữa trưa
Mấy dãy nhà lá che mưa, nắng trời

Tuổi thơ tôi được đi chơi
Phiên chợ tết chiều ba mươi với bà
Bà mua bánh, mứt, lọtrà
Dẫn tôi vào quán ăn quà cuối năm

Mấy năm trời, chẳng về thăm
Bà tôi khuất núi xa xăm thửa nào
Tôi về bước thấp bước cao
Tìm phiên chợ tết nắng lao xao buồn...

                                                     BTK

·

LƯNG CHỪNG…Thơ Lê Nguyên Hồng

·Lưng chừng núi hoa nở

Lưng chừng trời diều bay

Lưng chừng lời em hứa

Lưng chừng yêu sao say?

Cứ chần chừ mọi nhẽ

Không chịu đạp lối rừng

Cứ lưng chừng suy nghĩ

Đánh mất một con đường…

                                            LNH·

LỜI CHA--Thơ Lê Nguyên Hồng

Lên ba học nói con ơi

Sáu mươi học biết kiệm lời, lặng im

Cái mất đi có thể tìm

Lời như tên vút, mò kim đáy hồ

Trượt chân từ thuở ấu thơ

Có khi phải lụy, thiệt thua một đời

Ví mà trót dại những lời

Có khi trọn kiếp nổi trôi, khổ nàn

Dặm trường muôn nẻo đa đoan

Họa từ cửa miệng, lối tràn chông gai

Ai khoe tài giỏi, mặc ai

Đường con đi, chớ so nài ghét, ưa!

Ví dầu phận mỏng duyên thưa

Chớ ganh đua, chớ ăn thua mất - còn…

Bóng cha đã khuất núi non

Lời còn gửi lại… vuông tròn

Vẹn nguyên!

                                           LNH

·Chuyện vui cho đồng hương

TRẢI NGHIỆM TRƯỚC KHI CƯỚI VỢ

Gần Tết, Tâm muốn tạo điều kiện cho người bạn thân có được những trải nghiệm thực tế trước khi kết hôn, dự định sau Tết, nên nói với vợ:

-Em ơi, ngày mai, anh muốn mời thằng Tèo về nhà ăn tất niên.

Người vợ tròn xoe con mắt quát:

- Anh điên à! Nhà thì bề bộn ngập ngụa trong rác bẩn, Tết đến nơi còn chưa dọn dẹp gì cả. Em cũng chưa đi chợ lấy gì mà nấu ăn đãi khách. Còn bát đĩa suốt mấy ngày anh có chịu rửa. Thế mà anh còn mặt mũi nào mà mời bạn về nhà đây?

Người chồng mỉm cười nhẹ nhàng giải thích:

-Không sao, em đừng lo lắng quá, thằng bạn anh định lấy vợ. Nó chưa biết sau khi lấy vợ sẽ ra sao. Anh muốn cho nó đi thực tế tìm hiểu cuộc sống của hai vợ chồng mình trước, rồi mới đưa ra quyết định cuối cùng mà.

Người vợ:…?

                                                                                           Sưu tầm

GIÁ KHÔNG TĂNG NHƯNG BÀ ẤY BUỒN

Gần đến Tết, hai bà hàng xóm gặp nhau, ngồi than vãn về giá cả tăng cao. Một bà lớn tuổi hơn nói:

- Nhớ ngày xưa cầm một trăm ngàn đồng ra chợ là đủ ăn cả cái Tết, giờ cầm từng ấy tiền 9i chợ, không đủ ăn cho một ngày.

Bà kia, vốn có tính ăn trộm vặt, cũng than ngắn, thở dài:

-Ở chỗ tôi, hồi tuần trước này, cầm một tram ngàn đồng ra siêu thị là có đồ ăn cho cả tuần hay mười ngày ấy chứ. Giờ thì không được nữa rồi.

-Tại sao vậy, ở đó họ cũng tăng giá à? Thiệt tình, Tết một phát là giá cả tang vèo vèo, đến chóng mặt.

- Giá không tăng, chỉ là tuần này siêu thị ấy mới lắp thêm hệ thống camera thôi.

-Bà lớn tuổi hơn:…?!

                                                               Sưu tầm

LẤY CHỒNG RỒI CÓ KHÁC.

Một bà mẹ có một cô con gái xinh đẹp nhưng rất lười việc nhà, ăn ở bẩn thỉu, ít khi quét dọn cho sạch sẽ ngăn nắp, mọi việc dọn dẹp đều do người mẹ chịu khó làm, cô cũng vừa lấy chồng được cả năm.

Gần Tết, bà mẹ nhớ con, nên tìm đến nhà thăm. Vừa vào phòng, bà mẹ ngạc nhiên thốt lên:

- Phòng của con tôi đây ư?

-Dạ thưa mẹ.

-Ủa, gọn gàng, ngăn nắp thật, đúng là con gái lấy chồng rồi có khác! Mọi việc đều do con làm à?

-Dạ không, tất cả do chồng con làm đấy chứ, anh ấy còn chịu khó siệng năng hơn cả mẹ.

Bà mẹ:…?

                                                                                             Sưu tầm

CHỢ CHIỀU HỒ XÁ BÂY GIỜ...

(Lê Nguyên Hồng)

Tuổi thơ ai cũng có ít nhiều những kỷ niệm gắn liền với chợ trong những lần theo mẹ, theo bà đi sắm tết. Mỗi thế hệ có mỗi kỷ niệm về chợ không giống nhau. Chợ thuở nghèo đói ngày trước gắn liền với quê nhà một nắng hai sương, bữa đói bữa no trong nếp nhà tranh có dáng mẹ hao gầy tảo tần khuya sớm, có hình bóng cha lặng lẽ với những nét đăm chiêu hằn lên gương mặt khắc khổ mỗi mùa giáp hạt. Ai đã có tuổi nhỏ từng đầu trần chân đất theo mẹ đến chợ bán củi, bán khoai sắn, được mẹ bớt chút tiền ít ỏi mua cho vài cái kẹo, xâu bánh, cứ da diết trong lòng hình bóng mẹ gắn với cuộc đời sâu nặng như biển rộng non cao. Kỷ niệm về chợ thường là những hoài cổ vui buồn, lay động ký ức mỗi khi nhớ về ngày thơ bé. Chợ là bức tranh kinh tế thương mại thu nhỏ của một vùng quê qua từng thời kỳ lịch sử. Quê hương đất nước đổi thay, đời sống vật chất ngày càng phong phú theo cơ chế thị trường, chợ quê nghèo ngày xưa hầu như không còn nữa. Chợ quê thời nay đã hội nhập, là vệ tinh của chợ thị thành.

Tôi nói đến một ngôi chợ có nhiều kỷ niệm gắn bó với tôi từ khi xa quê đến công tác và định cư tại thị trấn huyện lỵ. Đó là chợ Hồ Xá - Là chợ bậc anh, bậc chị so với các chợ nông thôn ở huyện Vĩnh Linh. Thời chiến tranh chống Mỹ cứu nước, Vĩnh Linh là đặc khu trực thuộc Trung ương. Hồ Xá là thị trấn có mặt cư dân từ nhiều miền quê ở miền Bắc và một số nơi ở miền Nam đến công tác, sống, bám trụ chiến đấu rồi định cư lâu dài tại đây. Chợ Hồ Xá nằm bên Quốc lộ 1A, ngày trước chỉ là một chợ bé nhỏ mang đậm nét chợ quê, hàng hóa nghèo nàn, chủ yếu là: các loại nông sản địa phương, cá tôm, rau, củi, vật đan lát gia dụng...Dân cư chưa quần tụ đông đúc, nên chợ ở đây cũng chỉ nhóm họp vào buổi chiều. Suốt thời gian dài trong cơ chế bao cấp, kinh tế chợ cũng chỉ là những mặt hàng mang tính mua bán hạn hẹp trong vùng với nhau. Hàng nông sản do nông dân sản xuất được từ những địa phương lân cạnh mang đến. Một số dân vùng biển bãi ngang, vùng đồng đưa các loại tôm, tép, cua, cá đến bày bán vào buổi chiều. Người đi lao động trên các ngả đồng về, người cơ quan nhà nước hết giờ làm việc trong ngày, tiện ghé qua chợ mua hàng. Hồi trước, cơ quan nhà nước đóng rải rác, nên lượng người không tập trung đông như bây giờ. Nếp mua bán đó lâu dần thành quen. Vì thế, một thời chợ Hồ Xá chính là chợ Chiều. Cái tên chợ Chiều đã trở thành quen thuộc một thời gian dài với các địa phương trong huyện. Dần dần, thị trấn Hồ Xá trở thành đô thị trung tâm Chính trị - Kinh tế thương mại - Văn hóa của huyện, dân cư quần tụ ngày càng đông đúc, cuộc sống ngày một đô hội, chợ từng bước khởi sắc theo biểu đồ phát triển dân cư cũng như kinh tế. Chợ Chiều chính thức trở thành tên gọi chợ Hồ Xá, là điểmgiao thương với nhiều nơi trong và ngoài huyệnVĩnh Linh, là trung tâm thương mại ở cửa ngõ phía Bắc tỉnh Quảng Trị.Chợ ngày càng đổi mới, hàng hóa phong phú, khách tiêu thụ ngày càng lớn. Chợ tấp nập nhộn nhịp từ sáng sớm đến chiều tối.

Cách đây hơn 25 năm(Năm 1992),Chợ Hồ Xá được được huyện đầu tư xây dựng lại kiên cố 2 tầng, rộng rãi, có hàng trăm lô quầy với hàng chục ngành hàng. Các quầy hàng buôn bán trong chợ không riêng gì người Vĩnh Linh, mà có nhiều người từ ngoài huyện, ngoài tỉnh đến bám trụ lâu dài, lấy chợ làm nơi thương mại, phát triển kinh tế bền vững. Từ một chợ truyền thống như các chợ quê, nay chợ Hồ Xá mang tầm vóc một chợ đô thị thời cơ chế thị trường, có đủ các loại hàng hóa đáp ứng nhu cầu các đối tượng khách. Thị trấn Hồ Xá có 3 chợ đều nằm bên Quốc lộ 1A, đó là: chợ Hồ Xá (chợ Chiều trước đây), chợ Sáng và chợ Xép. Nhưng chợ Hồ Xá là chợ trung tâm, có quy mô lớn hơn, sầm uất hơn. Chợ Xép nằm ở cuối phía nam thị trấn, sát sông Hồ Xá, bên cạnh xí nghiệp gỗ Lê Thế Hiếu cũ. Một thời mọi người thường nói: Chợ Xép nhưng mà chắc, là vì chợ có cơ sở tồn tại tự nhiên từ xa xưa, trên bến dưới thuyền nhộn nhịp, khách thập phương tấp nập, hàng hóa đến bằng đường thủy là sông Hồ Xá, đường bộ là Quốc lộ 1A đều rất thuận tiện. Thời trước, chỗ nào có địa thế cận đồng ruộng, cận sông là dân tìm đến sinh kế làm ăn. Chợ Xép hình thành từ ý tưởng đó. Tiếp đến là chợ Sáng. Chợ Sáng cũng ra đời từ rất lâu, nằm ở khóm Nam Hải, nơi dân cư tập trung đông đúc, trước chợ là quốc lội 1A cạnh sông Hồ Xá xuôi về chợ Xép hòa vào sông Sa Lung. Gần chợ Sáng có nông trường Bến Hải, lượng công nhân và người lao động khá lớn. Sau này, để giản khoảng cách gần nhau giữa chợ Xép và chợ Sáng, huyện quyết định di chuyển chợ Sáng đến khu vực Công ty Vật tư cũ rộng rãi cao ráo hơn, cách chỗ cũ khoảng một cây số, trở thành chợ Hồ Xá II (Mọi người quen gọi là chợ Giữa). Trung tâm thị trấn Hồ Xá là nơi hầu hết các cơ quan nhà nướchuyện, tỉnh, Trung ươngđóng. Cán bộ, viên chức, người lao độngsinh sống và làm việc, mua sắm hàng ngày dựa vào3 chợ, nhưng tiêu thụ lớn nhất vẫn làchợ trung tâm Hồ Xá. Sức tiêu thụ của chợ trung tâm rất lớn. Để chợ hoạt động tốt, những người làm công tác quản lý chợ phải thực hiện hàng loạt công việc liên quan đến an ninh trật tự, phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm, chống hàng giả hàng nhái…Để hoạt động kinh doanh, mua bán hiệu quả và thuận tiện, ngoài việc ổn định các lô quầy hàng hóa ở đình chợ, Ban quản lý đã sắp xếp lại các điểm kinh doanh ở khu vực chợ trời, ở khu vực đình cá, xây dựng và sửa chữa lại khu vực bán rau quả, hàng nông sản, xây dựng hệ thống xử lý nước thải đảm bảo vệ sinh môi trường. Ban quản lý chợ thường xuyên kiểm tra ngăn chặn việc buôn bán ngoài phạm vi chợ gây ảnh hưởng giao thông cũng như mỹ quan đô thị, nghiêm cấm việc kinh doanh không lành mạnh như bán hàng kém chất lượng, hàng cấm, các đồ chơi trẻ em mang tính bạo lực…Đơn vị đã xây dựng hệ thống an ninh tự quản ở các ngành hàng để hòa giải những bất đồng, vận động nhân dân tố giác kẻ tội phạm lừa đảo, bất minh trong kinh doanh. Đặc biệt, đơn vị xây dựng phương án bảo vệ an toàn các ca chợ, tạo điều kiện cho bà con kinh doanh buôn bán thuận lợi, nhất là các dịp cao điểm đông khách mua bán vào thời điểm lễ, tết. Nhiều năm trở lại đây, Ban quản lý chợ phối hợp chặt chẽ vời Đồn công an thị trấn Hồ Xá để kịp thời xử lý những vụ trộm cắp, gây mất trật tự công cộng, những vụ lừa đảo trong buôn bán được chấn chỉnh. Vì thế, những biểu hiện tiêu cực tại chợ cơ bản được đẩy lùi, khách đến chợ phấn khởi, yên tâm. Chợ Hồ Xá cũng như các chợ trên địa bàn thị trấn đang phấn đấu trở thành nơi giao lưu thương mại ngày càng phát triển, đồng thời nơi thể hiện nét đẹp văn hóa, văn minh của người dân bản xứ cũng như khách hàng gần xa. Nói là nơi chợ búa, trăm người bán, vạn người mua, chẳng ai hơi sức đâu mà để tâm đến sự chú ý của người xung quanh, nhưng thực ra không phải vậy. Người đi chợ thời nay giống như đi hội, cũng quần là áo lượt với đủ các loại phương tiện xe máy loại sang, phấn son đàng hoàng trước khi đến chợ. Khách bán khách mua lâu dần thành quen, cách xử thế cũng dịu dàng, thân thiện. Nhờ đến chợ, ngoài việc mua bán, người ta có thể tìm lại được nhau sau những tháng ngày cách biệt. Nhìn con người có nét ứng xử văn hóa, chỉ cần quan sát người ta đến chợ và cách giao tiếp của họ với bạn hàng. Chính vì thế, người xưa đã đúc rút kinh nghiệm qua câu ca:

Trai khôn kiếm vợ chợ đông

Gái khôn kiếm chồng ở chốn ba quân.

. Đó là nói đến văn hóa chợ liên quan trực tiếp đến tính nết con người, nhất là chị em phụ nữ. Điều ấy rất quan trọng. Những nàng dâu tương lai chớ xem nhẹ ý của người xưa. Trai gái đến chợ ngày tết, nhiều cặp phải lòng nhau rồi nên vợ thành chồng. Chợ là nơi lưu giữ hình bóng mẹ tháng ngày bươn chải nhọc nhằn mua sắm cho chồng con mọi thứ, từ cái ăn cái mặc, đến từng chút nhu cầu nhỏ bé nhất của mỗi thành viên trong gia đình. Chợ gắn liền tình cảm mỗi người với quê hương, bà con xóm giềng như giếng nước, ao làng, kỷ niệm chốn sinh thành một thuở khó nghèo đầy nhung nhớ. Có rất nhiều người con xa quê, mỗi lần về nhà ăn tết, vẫn đi thăm chợ ngày xuân, cứ bần thần nhớ về hình bóng mẹ lúc còn sống, bước chân dọc ngang khắp nẻo bán mua nhộn nhịp. Mẹ không còn, nhưng như thấy đâu đây dáng mẹ qua hình bóng những bà, những chị hối hả, tất bật trước sự đông vui, tấp nập của dòng người ra vào chợ. Chợ gắn liền với tình cảm của mọi gia đình, mọi người con đất Việt.

Chợ Hồ Xá bây giờ đã đi vào qui cũ của chợ đô thị.Mặc dù chợ trung tâm cấp huyện, kinh doanh và tiêu thụ không lớn như chợ cấp tỉnh, nhưng chợ Hồ Xá đã từng bước vươn lên, thể hiện được tầm vóc của một chợ đô thị của thời kỳ hội nhập. Hàng hóa đa dạng, tạo điều kiện cho sức mua tại chỗ ngày càng tăng. Hàng năm, cả 3 chợ ở thị trấn đã nộp ngân sách cho nhà nước đạt 100% kế hoạch đề ra. Huyện đã có dịp đối thoại, tháo gỡ khó khăn,tạo điều kiện cho hộ kinh doanhtại chợcó cơ hội phát triểnlâu dài, thu nhập tốt hơn.

Đoạn quốc lộ 1A ngang qua thị trấn Hồ Xá hơn mười cây số, có 3 chợ đều nằm bên cạnh đường nhưng không hề kìm hãm, chia sẻ sức tiêu thụ của nhau. Các chợ vẫn diễn ra nhộn nhịp thường ngày. Nhất là vào dịp tết, ngày nghỉ, lượng khách rất lớn. Chứng tỏ rằng: thị trấn Hồ Xá đang phát triển với tốc độ nhanh, đều khắp. Ở đâu có chợ, ở đó hàng loạt loại hình dịch vụ phát triển, sự giàu có hiện hữu nhanh chóng, tỷ phú ngày càng nhiều, đúng với ý nghĩa: "Phi thương bất phú”. "Khó nhà giàu chợ”, đó là sự khẳng định từ xa xưa. Phát triển kinh tế chợ cũng là bước đột phá mũi kinh tế phi nông nghiệp trong cơ chế thị trường, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng nền kinh tế địa phương, đóng góp hiệu quả vào sự phát triển chung của huyện. Các xã, thị trấn và huyện Vĩnh Linh chăm lo phát triển chợ cũng bới ý nghĩa sâu xa của nó liên quan đến nền kinh tế cũng như văn hóa, văn minh của vùng đất thời kinh tế thị trường. Thuở đói khổ, cái nghèo của chợ cũng như mỗi gia đình không thể che giấu. Thời khá giả, không cần nói ra, chỉ nhìnhàng hóa ở chợ, người ta sẽ thấy được sự đổi thay của vùng quê cũng như chất lượng cuộc sống người dân được nâng cao theo thời gian.Ghé chợ Hồ Xá, mọi người sẽ cảm nhận được sức vươn kỳ diệu của vùng đất sau cuộc chiến tranh hủy diệt của giặc Mỹ và sức bứt phá đi lên mạnh mẽ sau ba mươi năm đổi mới của đất nước.

                                                                                                          Tháng 9/2017

                                                                                                                 LNH

HẠT LÚA QUÊ MÌNH--Thơ Nguyễn Hữu Thắng

Gặt về hạt lúa đồng sâu

Lúa ơi phải đất mỡ màu mà nên?

Lâu rồi khúc hát không quên

Mẹ ru con giữa những đêm lũ về

Đồng sâu nước ngập bốn bề

Sóng xao tiếng mẹ não nề lúa ơi

Câu ru nghẹn tiếng, nghẹn lời

Đất làng mà chẳng nuôi người làng ta

Đồng sâu là chỗ nước sa

Khi mô nước cạn để mà lúa xanh?

Bây giờ hợp tác thâm canh

Đồng sâu ngày ấy đã thành đồng chiêm

Bây giờ mương máng nối liền

Đất thôi úng mặn, lúa lên mượt dày

Đồng sâu xưa ở nơi này

Bây giờ bột biển lúa đầy dâng lên…

Thôi mùa đất lại vào chiêm

Thôi ngày nắng lửa lại đêm mưa dầm

Ấp iu hạt lúa nảy mầm

Tháng năm đất cứ lặng thầm nuôi cây

Lũ về, dòng nước qua đây

Lại theo những máng mương này trôi êm…

Gặt về hạt lúa đồng chiêm

Nhớ câu hát cũ- nỗi niềm mẹ tôi

Nhớ nhau vất vả một thời

Đào mương đắp đập, nụ cười em tao

Quê mình là đất đồng sâu

Nên chi hạt lúa đượm màu đó em.

                                                          NHT

BÌNH TĨNH--Thơ Nguyễn Hữu Thắng

Bình tĩnh lúc gian nguy

Sáng suốt khi bức xúc

Hãy bớt đi bựa dọc

Hãy tin ở cuộc đời

Khi lửa bỏng dầu sôi

Đừng làm điều nông nổi

Nghe chưa hết đầu đuôi

Đừng vội vàng kết tội

Hãy nhìn phong lan nở

Mỗi buổi bình minh lên

Hãy nhìn vào mắt em

Để yêu và hy vọng

Cuộc đời đầy biến động

Như sóng giữa trùng khơi

Hãy bình tĩnh người ơi

Sẽ tới bờ tới bến

                                                        NHT

GẶP LẠI SÔNG BẾN HẢI—Nguyễn Văn Dùng

Dễ đã lâu rồi về thăm lại

Bến Hải sông ơi yêu mấy cho vừa

Bên nớ Gio Linh lúa đã ngập bờ

Vĩnh Linh bên ni dậy

Vẫn nắng gió mây trời sông nước ấy

Gần gủi thiêng liêng như nụ hôn thầm

Vọng đâu đây tiếng sóng biển rì rầm

Nói điều chi để lòng ta thổn thức!

Ta bỗng thấy nhói đau lòng ngực

Vết thương một thời day dứt chưa nguôi

Bến Hải ngàn năm bên lở bên bồi

Sao bờ tim ta một thời xói lở?

Ta vẫn biết chỉ một lần mang nợ

Cả cuộc đời đâu dễ trả xong

Mắt em vẫn đen môi em vẫn hồng

Để cho ta hơn một lần bối rối

Thức trắng đêm với hương đồng gió nội

Lòng nghe trăn trở một niềm riêng

Có ai hay trăng phía biển lưỡi liềm

Trăng khuyết, hay tình ai hao khuyết?

Xin gửi lại đây mối tình bạo liệt

Và mang về nỗi khát vọng trào dâng...

                                                            NVD

THỊ XÃ VÀ TÔI--Thơ Nguyễn Văn Dùng

Tôi đi qua biết mấy phương trời

Lại trở về giữa lòng thị xã

Phố mới, đường xưa vừa thân vừa lạ

Tiếng con tàu réo gọi nỗi niềm ai…!

Thị xã không tròn vuông, chẳng rộng dài

Như hải cảng đời tôi neo đậu

Bao nỗi thương đau, bao niềm yêu dấu

Thị xã tan vào hoài niệm xa xưa…

Thị xã ngẩn ngơ bao cuộc tiễn đưa

Người ra đi ngoái đầu nhìn lại

Người ngóng đợi tim mình đau nhói

Thị xã ơi, đau đáu những đêm hè…!

Thị xã mình không có hàng me

Hoa sữa ngát hương tháng ngày chờ đợi

Phượng cháy hết mình rực trời bối rối

Mỗi khi heo lạnh buổi đông về…

Tuổi học trò bâng khuâng tiếng ve

Khi biết yêu người sang sông vội quá

Tôi lỡ nhịp một cung đàn xa lạ

Để một thời ảo ảnh bóng hình ai…

Thị xã tôi chẳng rộng dài

Đường dốc quá, phố nhỏ nhòa bụi nắng

Em xa xăm mơ điều dĩ vãng

Lòng tôi như hò hẹn với khôn cùng

Có một lần suy tưởng mong lung

Trời đất rộng sao lòng người lại hẹp?

Hồn tôi mở cửa phòng em lại khép

Tôi quay về đối diện với thời gian

Thị xã nhỏ nhoi mây gió đại ngàn

Yêu đến tận cùng nỗi niềm rạn vỡ

Và sống chết cả đời mang nợ

Thị xã ơi, tôi lỗi hẹn mất rồi…!

                                                      NVD

KHÚC MÙA THU---Thơ Nguyễn Văn Dùng

Bỗng nhiên trời xanh cao vút

mây hồng lãng đãng rong chơi

gió lang thang tìm nơi ở trọ

cơn mưa chiều tí tách rơi rơi

Thu dạo phố cho lòng luyến nhớ

An Lạc bên sông đã rộ cúc vàng

cốm thơm nức má em hồng quá

mắt đen lay láy đò ngang

Có đôi khi hẹn hò thấp thỏm

men tình yêu dịu nhẹ nồng nàn

thu chợt đến cho lòng mở hội

đã qua rồi nắng cháy mưa chan

Thu buổi đầu hồn như trẻ lại

hình như thơ thêm vị ngọt ngào

thu mang mùi hương thoang thoảng

khúc ru tình dào dạt trăng sao

Sáng Khe Mây tiếng chim nhiều quá

không gian ngưng đọng phút giây

thu long lanh nụ cười ánh mắt

và niềm yêu lai láng dâng đầy…

                                                          NVD

MŨI SI--Thơ Nguyễn Văn Dùng

Chẳng phải đa tình

cũng chẳng đam mê

Chỉ vậy thôi, như bao mỏm đá

Sao người đời lại gọi Mũi Si…?

Ngàn vạn năm

mỏm đá gan lỳ

Như mũi tàu hướng ra biển lớn

Ngàn vạn năm

bão xô sóng cuộn

Vẫn kiên gan

ưỡn ngực đón cuồng phong…

Mũi Si hay mũi tàu

em có biết không?

Anh liên tưởng

mỗi lần về với biển

Có gì lạ

trong cái nhìn lưu luyến

Mách hộ anh rằng

em vẫn trung trinh

Trời vẫn xanh

biển vẫn lung linh

Sao em cười mắt lại ướt

Có phải cách xa

trở về hợi hẹn ước

Lời thề xưa

Mũi Si tạc vào lòng?

Đá vẫn biết yêu

vẫn biết chờ mong

Huống nữa là em

tình như biển rộng

Mũi Si – Mũi tàu

buồm lên gió lộng

Ngực căng phồng

nhịp sống trào dâng…!

                                                    NVD

*Mũi Si: Mõm đá nhô ra như mũi tàu ở bờ biển Cửa Tùng, Quảng Trị

MỘT VẠN NGÀY--Thơ Nguyễn Văn Dùng

Anh đã mất một vạn ngày để yêu em

Anh không muốn mất thêm một vạn ngày để

quên em được nữa

Qũy thời gian của anh không còn nhiều

chỉ tính bằng cơm bữa

Dù còn chẳng bao nhiêu với anh lại

quý giá vô cùng!

Anh đã mất một vạn ngày độ lượng bao dung

Anh không muốn mất thêm một vạn ngày

để xót xa hơn được nữa

Không gian của anh chật hẹp không đủ ô – xy

để bùng lên ngọn lửa

Dù chật chội nhỏ nhoi với anh lại

quý giá vô cùng !

*

Anh đã mất một vạn ngày để nuôi lớn tình thân

Anh không thể mất thêm một vạn ngày

để quên cuộc tình lãng mạn

Thời gian không gian với anh đã tận đáy

đã bên bờ giới hạn

Dù tất cả là phù du với anh là thứ

quý giá nhất trên đời …!

                                                       NVD

GIÓ TỪ THẠCH HÃN--Thơ Nguyễn Văn Dùng

Gió từ Thạch Hãn gió lên

Thoảng nghe trong gió gọi tên bạn mình

Dòng sông sóng nước tâm linh

Đôi bờ rào rạt ân tình sóng chao

Đêm Thành Cổ trời đầy sao

Bao nhiêu tinh tú ngôi nào có tên?

Đồng đội tôi từ trăm miền

Hình như con sóng xướng tên từng người

Đồng đội ơi, đồng đội ơi!

Vượt qua Thạch Hãn đừng rời tay nhau

Mưa nguồn lũ quét đục ngầu

Mặt sông mưa đỏ một màu máu loang…

Mưa từ Ái Tử mưa sang

Lũ qua Đập Trấm nước tràn mênh mông

Ai nằm lại dưới đáy sông

Ai vượt thác lũ, cờ hồng phất cao?

Gió từ Thạch Hãn rì rào

Lời ru tưởng niệm lắng vào cõi thiêng…!

                                                                       NVD

HOÀI NIỆM---- Nguyễn Văn dùng

Có một thời trai trẻ. Bạo liệt và đam mê. Tôi đã sống những ngày như thế. Ngày ấy em cũng như tôi – hồn nhiên vô tư quá!

Rồi chiến tranh lan đến làng tôi. Trên bầu trời ngày đêm B- 52 gầm rú. Đại bác Hạm đội Bảy, từ Cồn Tiên, Dốc Miếu thi nhau nhả đạn. Làng tôi cháy tan hoang và nhiều người thân ngã xuống. Người làng tôi cứ vơi dần!

Đó là những ngày chảy bỏng yêu thương và sục sôi căm giận!

Ngày ấy em và tôi học ở trường làng. Những buổi chăn trâu em thường rủ tôi vào Mũi Rú hái hoa dẻ. Ngày ấy tôi đã biết nghĩ ra những trò nghịch ngợm làm em hờn giận. Sợ em khóc, tôi vào rú tìm những chùm ổi mọng dỗ dành em. Tôi đã biết mài mảnh máy bay rơi làm lược tặng em có ghi dòng "Kỷ niệm…”

Ngày ấy, em còn bé lắm. Tóc đuôi gà nhảy choi choi với bọn con nít ở đình làng. Ngày ấy, tôi cũng chưa kịp lớn. Thế mà có lần tôi núp ở bụi tre ngà trộm nhìn em tắm. Tôi có ngờ đâu chiến tranh và lãng mạn. Có ngờ đâu tôi làm chuyện tày trời!

Ngày ấy, tôi đã biết bom bi nổ ra những hòn bi như hạt bắp. Còn bom khoang thì nổ ở độ sâu không nổ trên mặt đất bao giờ. Nhưng mãi đến khi em tắm ở cái giếng ở đầu làng tôi mới biết rằng em đẹp.

Và đến ngày đó thơ tôi mới có sắc hương

Thế rồi tôi làm thơ nhiều hơn. Cố tìm những lời thật vừa lòng em để tặng. Em nhận. Cười rất tươi. Nhưng chẳng nói gì. Đôi mắt có hàng mi dài chớp chớp.

Em có hiểu hết những hàng hàng lối lối trong tờ giấy tôi trao cho em không? Tôi bổng giật mình thấy nơi khóe mắt của em có hai hạt ngọc rơi xuống. Hình như em hiểu và thương tôi lắm!

Chiến tranh ngày một dữ dội hơn. Em sống ở địa đạo lâu ngày da lại trắng, tóc dài và đen hơn. Trong ánh nắng cuối chiều mắt em nhìn rất đẹp.

Giữa hai trận B-52 là những phút giây hiếm hoi yên tĩnh. Tôi ngắm kỹ và phát hiện ra một điều kỳ diệu: Ngực em nhô cao hơn và hình như có cái gì động đậy. Em đã là thiếu nữ thật rồi ư ? Tôi mừng và thấy ngượng.

Từ ngày ấy mỗi lần gặp em là người tôi cứ run bắn lên, chân tay lóng ngóng như gà mắc tóc. Còn em nhìn xa xăm. Đôi má có lúm đồng tiền xinh xinh bỗng ửng hồng.

Và cũng ngày ấy thơ tôi tặng em mùi mẫn hơn và hình như có cánh

Thế mà em đã đi xa. Xa lắm rồi không thể nào gặp lại. Một trận B- 52 quái ác dội xuống làng Tân Trại cướp đi mạng sống biết bao người. Cướp đi cái tuổi trăng tròn tươi rói của em tôi, khi em và tôi chưa một lần hôn nhau, chưa kịp hẹn hò, khi em chưa kịp làm thiếu nữ.

Nước mắt không còn nhiều để khóc. Tiếng nấc cứ nghẹn ngào. Những con sóng Cửa Tùng nổi giận. Hàng cây trên đồi Mũi Rú thét gào.Tôi gọi tên em trong mê sảng. Rồi lịm đi cho đến sáng hôm sau!

Tôi đặt lên mộ em chùm hoa dẻ hái từ đồi Mũi Rú. Chẳng nói được với em lời nào hay hơn những gì em và tôi đã sống. Bỗng dưng có cái gì cay nơi mắt và mằn mặn ở môi.

Hôm nay tôi về thăm làng Tân Trại – nơi tôi và em đã sinh ra và sống bên nhau những ngày thơ mộng. Tôi thắp nén nhang và đặt lên mộ em chùm hoa dẻ. Tôi lặng người khi nghe tiếng em gọi văng vẳng hòa trong tiếng gió biển rì rào.

Em tôi không chết. Em trẻ mãi cái tuổi trăng tròn hồn nhiên vô tư ấy! Em vẫn sống bên tôi âm thầm lặng lẽ - sống giữa tấm lòng nhân hậu của làng Tân Trại thân yêu!...

                                                                               NVD

ĐÔI ĐIỀU VỀ KHU DI TÍCH ĐÔI BỜ SÔNG HIỀN LƯƠNG--- Nguyễn Khắc

Hầu như tất các các khách du lịch đến Quảng Trị đều dừng chân ghé thăm di tích đội bờ sông Hiền Lương.

Di tích đôi bờ sông Hiền Lương lâu nay đã trở nên quen thuộc với du khách trong và ngoài nước, là biểu tượng về sự rạng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong cuộc đấu tranh vì khát vọng thống nhất non sông.

Đây là khu di tích đặc biệt cấp quốc gia theo quyết định số 2383/QD-TTg của Thủ Tướng Chính phủ ký ngày 9 tháng 12 năm 2013.

Có thể nói rằng, di tích đôi bờ Hiền Lương là một di tích không chỉ mang tầm quốc gia mà còn rất đặc biệt đối với thế giới, rất ít nước có được. Nơi đây ghi dấu ấn của cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước, thống nhất tổ quốc, xuyên suốt từ đầu đến cuối, ròng rả mấy chục năm trời. Biết bao nhiêu chiến công, hiển hách, bao nhiêu mất mát, hy sinh, khắc sâu lên từng tấc đất, từng bụi cây, ngọn cỏ, từng con đường, từng khúc sông, làm cho mảnh đất vùng giới tuyến trở nên huyền thoại.

Kể từ ngày được công nhận là di tích đặc biệt cấp quốc gia, di tích đôi bờ sông Hiền Lương, được tôn tạo và nâng cấp lên so với trước. Tuy nhiên sự nâng cấp, tôn tạo vừa qua thực ra chỉ là sự sửa chữa nhỏ, chưa xứng tầm vóc của nó.

Cốt lõi của vấn đề của một khu di tích đặc biệt là phải lôi kéo được đông du khách, tạo ra bởi sự hấp dẫn của vẻ đẹp và nội dung cuốn hút cho du khách khi người ta đặt chân đến.

Nói thực, khu Di tích đặc biệt cấp quốc gia đôi bờ sông Hiền Lương này, cả hai thứ nêu trên, đều chưa đáp ứng được. Vẻ đẹp bên ngoài thì quá bình thường, khu di tích hiện đang bị xuống cấp,mà phải nói là xuống cấp nghiêm trọng, cây cối mùa hè xác xơ, đường đi lối lại thật bất tiện, dơ bẩn . Cả khu di tích không có một nhà vệ sinh đúng tiêu chuẩn cho du khách nhất là cho người nước ngoài, vốn quen với sự văn minh, sạch sẽ. Hệ thống dịch vụ, bán hàng quà lưu niệm cho du khách chưa có gì.

Các công trình tôn tạo, từ đồn công an, khu liên hợp….khi xây dựng chưa nghiên cứu kỹ, xây dựng quá sơ sài, có cái hoàn toàn không đúng với hình mẫu trước đây,lại đặt sai ví trí.

Về tư liệu, vào khu di tích đặc biệt mà có rất ít tư liệu để xem, để nghiên cứu. Ảnh tư liệu đôi bờ sông Hiền Lương, trên vĩ tuyến 17 có thể nói nhiều vô kể, có điều chúng ta chưa sưu tập lại mà thôi. Cuộc đấu tranh của hai miền trong thời bình cũng như trong thời chiến được nhiều nhà báo, nhà nhiếp ảnh trong và ngoài nước chụp hàng hà, sa số. Nhiều bức ảnh đã được in trên các tờ báo, tạp chí, trên sách.. nói về hoạt động của quân dân ta trong các ngày thường cũng như trong các ngày lễ Tết, trong những ngày đấu tranh với địch, với ủy ban quốc tế đòi thực hiện đúng hiệp định Giơ Ne Vơ, thống nhất non sông.

Trong thời gian chiến tranh, do cuộc chiến ở vùng này quá ác liệt, nhiều nhà văn, nhà báo khó xâm nhập được vào đây, do vậy hình ảnh của đôi bờ sông có ít đi, nhưng không phải là không có. Những tư liệu của vùng giới tuyến có lẽ đang nằm ở đâu dó trong các bảo tàng của địa phương, của quân khu, ở trong dân, trong vali, túi xách của những người đã gắn bó với vùng giới tuyến, giữ để làm kỷ niệm, mà chúng ta quan tâm chưa hết. Có thể nói, chúng ta chưa có một kế hoạch đầu đủ để sưu tầm và cũng chưa có tiền để lên kế hoạch thực thi.

Nói về hiện vật, đôi bờ sông Hiền Lương, là nơi diễn ra cuộc chiến của hai miền, nói rộng ra là của hai phe ròng rã mấy chục năm. Tất cả các loại bom, đạn, vũ khí của hai phe, từ Liên Xô, Trung Quốc, Hunggary, Mỹ, Úc, Pháp… có cả, không thiếu thứ gì từ thô sơ đến hiện đại nhất. Vậy mà khi vào trong khu di tích Hiền Lương chúng ta quá ít, nhìn quá thất vọng.

Nói đơn giản, những vật dụng thông thường như chiếc máy nổ dùng thắp sáng cột cờ, cổng chào và khu vực, chẳng thấy chiếc xe Zeep hay chiếc ca nô chở ủy ban quốc tế 76 đi kiểm tra trên bộ, dưới sông, giám sát việc thi hành hiệp định Giơ Ne Vơ…không thấy có trong khu di tích. Chắng thấy một bộ sư tập nào về các loại bom từ bom sát thương, bom lân tinh, bom từ trường, bom nổ trên không, nổ trên mặt đất, nổ dưới lòng đất, bom tấn, bom tạ…đem chưng ra, cho du khách xem và chụp hình . Cả một khu di tích về chiến tranh của vĩ tuyến 17, đôi bờ Hiền Lương mà chẳng có một chiếc máy bay, một khẩu pháo hay một chiếc xe tăng nào để khách hình dung được cuộc chiến khốc liệt và sự quả cảm của quân dân vùng giới tuyến. Du khách, nhất là du khách nước ngoài người ta rất ưng chụp hình kỷ niệm với những loại hiện vật này vì họ chưa thấy hay muốn trở về hoài niệm. Hồi chiến tranh vừa kết thúc xong, ở một vài nơi của vùng giới tuyến, người ta lấy mảnh bom cưa đôi, dựng làm hàng rào, nhìn cũng hay hay. Những hiện vật chiến tranh, nếu biết lắp ghép, biết dàn dựng sẽ tạo nên một không gian có ý nghĩa, cho người ta chiêm ngưỡng, mở rộng sự hiểu biết và để chụp hình vừa đẹp vừa mang nhiều ý nghĩa( Việc này thì phải vào xem và học tập ở bảo tang Di tích Chiến tranh nằm trên đường Võ Văn Tần, Phường 6, Quận 3 TP Hồ Chí Minh rồi, nơi đây du khách nước ngoài đến xem hang ngày rất đông, thu nhiều tiền lắm).

Các hiện vật của đôi bờ sông Hiền Lương còn nhiều vô kể, đang nằm rái rác đâu đó, đơn cử như lá cờ cuối cùng ở đầu cầu Hiền Lương đang nằm trong nhà ông bà Trợ, xóm 1, thôn Hiền Lương hay chân đế cột cờ Hiển Lương đang nằm ơ cơ sở sắt vụn ở Hồ Xá…cần sớm có kế hoạch đưa về khu di tích.

Nói đến di tích đôi bờ sông Hiền Lương là nói đến cuộc đấu tranh thống nhất non sông của dân tộc ta ở vùng giới tuyến, chứ không chỉ đề cập đến mỗi ở đầu cầu Hiền Lương, mà vùng giới tuyến sông Hiền Lương này từ Cửa Tùng, Cửa Việt lên đến tận biên giới Việt Lào, có bết bao nhiêu kỳ tích, biết bao nhiêu chuyện để nói, thực sự anh hùng, đầy tính huyền thoại, đầy sức thuyết phục và hấp dẫn, không một nơi nào có.

Nói về di tích Hiền Lương không thể không nhắc đến hệ thống đồn công an vũ trang từ Cửa Tùng đến dãy Trường Sơn. Không thể không nhắc đến Bến Đò A, Bến Đò B ở Cửa Tùng, nơi neo đậu tàu thuyền, chở lương thực, nước uống, vũ khí, đạn dược, chở cán bộ, bộ đội, thương binh, tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ và chi viện cho bờ Nam. Cũng không thể không nhắc đến cuộc đấu tranh anh hùng của quân dân bờ Nam trong việc chống dồn dân, lập ấp, phá hang rào điện tử, đấu tranh đòi thông nhất non sông.Không thể không nhắc đến các địa danh như Bến Lội, Giang Phao(phía Nam) hay Bến Rèn ở phía Bắc, nơi bộ đội dân quân vô ra, nơi đồng bào bờ Nam chạy sang bờ Bắc, tránh càn quét của địch, biết bao nhiệu hy sinh mất mát đã xẩy ra, máu nhuộm đỏ cả một khúc sông. Ít ra thì trong không gian của di tích đôi bờ sông Hiền Lương cũng phải có một góc nói về nó.

Mảnh đất giời tuyến là nơi thu nhỏ của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xuyên suốt từ đầu đến cuối, rất ly kỳ, rất thầm lặng, rất âm ỉ, rất công khai, rất tâm lý, rất ác liệt và rất căng thẳng, tạo nên cho vùng đất nắng gió này tính chịu đựng cao,hy sinh lớn, đầy thử thách, đầy những chiến công hiển hách. Người ta nói đất vùng giới tuyến là đất lửa, là vủng đất thiêng, nơi cái chết là lẽ bình thường và sự sống mới là điều lạ.

Giờ chiến tranh đã đi qua, vết thương chiến tranh đã lành trở lại.Chúng ta không bới vào vết thương chiến tranh nhưng cũng phải ghi nhớ để không bao giờ cho phép những điều tồi tệ tiếp tục xảy ra.

Nói về du lịch thì cũng không ích người thích các điểm du về về nguồn, về những kỷ niệm chiến tranh nhất là du khách người Mỹ, người Pháp, Người Úc… họ rất muốn thăm lại chiến trường xưa để liên tưởng, để hoài niệm. Tuy nhên, đầu tư các gì về lúc này cũng phải tính cái độc đáo, cái đẹp và tính đến hiệu quả kinh tế. Di tích đôi bờ sông Hiền Lương, nếu đầu tư đúng mức thì chắc chắc thu hút nhiều du khách và mang lại hiệu quả thực sự. Nó nằm ngay trên quốc lộ số 1 thuận thiện đi lại giữa hai miền, liền kề với các điểm du lịch khác như bãi biển Cửa Tùng, Cửa Việt, địa đạo Vĩnh Mốc, thánh địa La Vang…có thể kết hợp tuor du lịch liên hoàn cho du khách trong và ngoài nước nhất là khách Mỹ. Du khách sẽ thích thú, sau khi thăm di tích đôi bờ sông Hiền Lương xong, xuống thuyền du lịch, đi ngắm dọc sông Hiền Lượng, giống như ủy ban quốc tế ngày xưa đi giám sát, xuống đến Cửa Tùng hóng mát, thưởng thức các món hải sản tươi ngon thì hay biết mấy, để lại dấu ấn khó quên.

Việc quan trọng hiện nay là khu di tích này phải được đầu tư nâng cấp cho xứng tầm. Khi đầu tư cũng phải làm đồng bộ, nghiên cứu kỷ, không làm tùy tiện. Trong năm 2018, chúng ta có xây dựng một tượng đài công an vũ trang, đạt bên phía đồn liên hợp( Bộ đôi) là không phải rồi.Chẳng nhẽ sau này bộ đội, dân quân, người dân lại muốn làm bia, tượng kỹ niệm thì đặt ở đâu? Thiết nghĩ, nơi khu này, chỉ cần xây một tượng đài chung cho cả bộ độ, công an, dân quân và người dân vùng giới tuyến là đầy đủ ý nghĩa và phải đặt đúng vị trí phù hợp.

Việc đầu tư xây dựng lúc này phải thu hút được khách, nên phải làm cho thật đẹp, có nhiều tư liệu, có nhiều hiện vật để người ta xem, để nghiên cứu để chụp hình, giải trí. Ít ra khi du khách đến đây họ sẽ không thất vọng vì đã bỏ thới gian và tiền bạc ra và họ sẽ muốn quay trở lại.

Các khu dịch vụ, vệ sinh, quà lưu niệm cũng phải có để khi đền đây du khách khỏi có các mà mua về làm quà cho bạn bè, người thân, mang lại ấn tượng tốt đẹp.

Đầu tư là phải mang lại hiệu quả, tạo ngườn thu cho địa phương, ít ra cũng đủ trang trải cho đời sống củ cán bộ, công nhân viên khu di tích, để duy tu, bảo trì, nâng cấp cho di tích ngày một đẹp hơn.

Tôi nghe nói khu di tích đôi bờ sông Hiền Lương sẽ được nấng cấp khi đường tránh qua khu di tích này làm xong. Giờ thì đường tránh đã xong lâu rồi nhưng chưa thấy rục rịch gì cho việc nâng cấp khu du tịch cả, sự chuyển động rất chậm chạp.

Giờ thì địa phương nào cũng rầm rộ phát triển di tích, bia tưởng niệm, tượng đài…chẳng nhẽ khu di tích đặc biệt cấp quốc gia, mang tầm thế giới này lại để như vậy sao?

                                                                      NK

CHIẾC LÁ RƠI-- Ngọc Hương

"Má ơi! Đêm đã khuya lắm, hơi lạnh tê buốt từ những cơn mưa rả rích theo gió xộc vào phòng. Trên bức tường đã xỉn màu thời gian, từng giọt, từng giọt nước mưa ri rỉ đọng lại rồi chảy thành dòng, loằng ngoằng xuống nền sàn lót gạch tàu âm ỉ tối, nơi những thân hình còm cõi, uốn lượn những vết xăm không còn rõ hình thù của đám bạn con đang phập phù theo giấc ngủ nhọc nhằn...Trằn trọc mãi vẫn không sao ngủ được, con chống tay thu lu ngồi dậy trong chu vi hai viên gạch tàu của mình, vói tay nhón điếu thuốc duy nhất còn sót lại đưa lên môi nhưng rồi lại trả về chỗ cũ, trên trần nhà, có tiếng tặc lưỡi của con thằn lằn cụt đuôi đang đi săn đêm, tội nghiệp, mưa ướt vậy mà cũng đi kiếm mồi, chắc nó đói...Nhớ lại lúc sáng ở phòng thăm gặp, thấy má hốc hác và luôn miệng ho, còn Bé em lí nhí báo tin đã làm đám cưới và đang ở bên nhà chồng. Hèn gì luôn hai tháng má đi thăm gặp đều nói con nhỏ bận đi làm, phải rồi, chắc má sợ con buồn vì nó là đứa em con thương nhất. Tội cho em con? Nhà chỉ có hai anh em, con nhỏ làm sao vui được khi ngày hạnh phúc nhất đời lại không có anh trai tham dự? Còn má? Chắc chắn má còn buồn hơn? Tại sao? Tại sao chứ? Cả đời má chỉ biết tất bật bươn chãi để lo cho hai đứa con, vậy mà con chỉ nghĩ tới thú vui riêng mình chứ không hề lo toan gì phụ má. Khi vùi sâu vào khói thuốc mê hoặc, con đổ lỗi cho cuộc đời, cho hoàn cảnh không trọn vẹn của gia đình, cho người cha chỉ biết đam mê tửu sắc. Con hận. Hận ai? Hận cả thế giới, hận cả sự có mặt của con trên cuộc đời này. Con bỏ ngoài tai mọi lời răn dạy của má, con chơi, chơi tới, càng chơi càng lún sâu vào vũng lầy tăm tối, cho đến một ngày khi chợt tỉnh ra thì đã thấy vây quanh con chỉ có hai viên gạch tàu cùng những xác thân hao gầy và những cặp mắt lơ láo không còn sức sống...Niềm an ủi duy nhất của con là chờ những lần thăm gặp hàng tháng để được thấy khuôn mặt thân thương của má, của em, để được nghe em cười giòn tan khi con kể chuyện bắt chuột cống nuôi cho có bạn, chuyện đập muỗi dán lên tường như thói quen hai anh em trước giờ vẫn làm, nhưng ở trại lại bị kỹ luật... Để mở to mắt nhìn môi má mấp máy dặn dò phải xức dầu, cạo gió mỗi khi bị cảm, phải vận động tay chân cho đỡ nhức mỏi xương khớp, phải tập hít thật sâu, thở thật dài để thổi dần hồi phục sau những tổn thương tự chuốc...

Nhói lòng nhất là khi nghe má kể lại nỗi sợ hãi khi đi đường bị bọn choai choai tóc đỏ, tóc vàng ép xe giật giỏ hay tạt ngang đầu xe cho té để rồi cướp luôn xe. Ngồi nhà lại giật mình thon thót khi cũng là lũ trẻ gầy ốm như ma đói khuân ti vi, đầu máy, karaoke, bếp ga, quạt máy... đến nhà gạ bán với giá rẻ như cho. Chắc là chúng đang "hỏa” nên cần tiền để thỏa cơn ghiền...không khác gì con khi còn là con nghiện vất vưởng ngoài đời. Con hận mình, hận bọn buôn bán cái chết trắng đã hủy hoại biết bao lớp trẻ, trong đó có con, những mầm xanh chưa kịp nhú đã bị chất độc hủy hoại đến lụi tàn...Lỗi tại ai? Tại ai? Bản thân con nào muốn tuổi xuân mình phải chôn vùi sau những chấn song sắt? Con cũng muốn làm lại cuộc đời, dẫu phải từ con số không. Nhưng tại sao? Sao bọn máu lạnh chuyên làm giàu trên thân xác người khác mãi vẫn không buông tha cho con, dẫu con trốn biệt trên gác xép hay nằm bẹp dưới gầm giường bọn chúng vẫn tìm đủ mọi cách để khiêu khích,chọc thèm cho tới lúc lên cơn phải bò ra lạy lục, van xin để rồi tiếp tục là nô lệ cho cái chết được báo trước. Còn mọi người? Sao vẫn không tin con? Sao luôn kỳ thị con? Chỉ vì con đã từng là con nghiện!! Đau! Đau lắm. Tủi! Tủi nhục lắm...con chỉ muốn gào thét, muốn gieo mình xuống dòng nước sâu hút, đục ngầu cho trôi xa, cho tan biến, để mọi người đừng kỳ thị, đừng dè bĩu, đừng xem con như một thứ rác rưởi, một thứ ung nhọt của xã hội cần bị loại bỏ, hãy cho con một con đường sống, con rất cần vòng tay nhân ái của mọi người giúp con, giữ con lại, kéo con lên, giúp con vượt qua được chính bản thân để vững tâm làm lại cuộc đời, dẫu có muộn màng, dẫu nhiều cay đắng. Con cầu khẩn mọi người mở rộng lòng nhân để giang rộng vòng tay cứu giúp con và đám bạn đã từng lầm lỡ như con, vì con tin, có sự giúp sức của cộng đồng, chắc chắn xã hội này sẽ trong sạch hơn, tươi sáng hơn vì không còn những bóng ma vất vưởng ám ảnh...

Má ơi! Trời lại đổ mưa ầm ào, mỗi lúc một nặng hạt làm con rùng mình, ớn lạnh. Nhưng lòng chợt ấm khi nhớ Bé em đã yên bề gia thất, chắc má mừng lắm vì bên nhà chồng con nhỏ sau nhiều năm lắc đầu nguầy nguậy không chịu cưới chỉ vì có thằng anh nghiện ngập nay đã chấp thuận. Mừng cho em, còn con? Bao giờ con mới có mái ấm hạnh phúc? Có cô gái nào dám chấp nhận một người từng lầm lỡ như con? Còn má? Ai sẽ lo cho má những khi trái gió trở trời trong ngôi nhà vắng ngơ vắng ngắt? Mỗi lần má vào thăm, thấy má xanh xao, mệt mỏi và ho từng chập con thấy tội con lớn lắm, đày ải má suốt cuộc đời chưa có ngày bình yên. Má ơi! tha tội cho con, cố gắng giữ gìn sức khỏe nghe má. Trải qua những ngày tháng tối tăm từ trại giam này đến trại cai nghiện kia đã giúp con hiểu, con thấm thía nhiều rồi. Con đã nhận ra bao lỗi lầm của mình, con đã làm khổ má, khổ em, con giận mình đã quá yếu hèn không dám đối mặt, quay lưng trước những cám dỗ phù du, những mời gọi ma quỷ đưa con người đi vào đường chết...Nay con đã nhận ra và ước ao sớm được trở về bên mái ấm gia đình, nơi có nụ cười nhân hậu và vòng tay bao dung của má, tình yêu thương của em cùng sự cảm thông, động viên của tất cả mọi người. Hứa với má lần cuối là con sẽ vượt qua để thật sự là đứa con yêu ngày nào của má. Thương con nghe má, chờ con nghe má, con sẽ về, nhất định sẽ về...”

Tiếng cú kêu từng chặp vọng vào đêm khuya não nùng làm bà Ba bừng tĩnh, dưới ngọn đèn dầu leo lét, bức tâm thư của thằng con đã nhàu nhĩ từ lâu nay lại nhạt nhòa do những giọt nước mắt già nua rỏ xuống. Tim lại quặn đau, bà đưa tay lên chặn ngực...

"Nó đâu còn sức khỏe để thực hiện lời hứa với bà khi đã thực sự quyết tâm quay đầu làm lại cuộc đời. Căn bệnh thế kỹ mà nó vương mang đã đi vào giai đoạn cuối. Nó cắn răng chịu đau không rơi một giọt nước mắt dù ổ hạch vở liên tiếp làm nó đau đớn đến tận phút giây sau cùng. Cặp mắt đã dại đi của nó luôn hướng về bà như tìm điểm tựa, như sợ quên đi khuôn mặt yêu dấu của má mình trong giờ phút ngọn đèn leo lét sắp tàn... Bà không thể nào quên được những lời sám hối cuối cùng của nó "Má ơi! Phải chi con biết nghe lời má thì bây giờ con đã là ông nọ, bà kia chớ đâu có thân tàn ma dại như vầy, phải chi con biết nghe lời má...Kiếp này lỡ hết rồi má ơi! Đừng buồn con nghe má...”

Gió từ bến sông thổi thốc vào nhà làm ngọn đèn chao nghiêng sắp tắt, nhìn lên di ảnh của con bà thì thầm ước nguyện "Mong cho tuổi trẻ ngày nay biết tránh xa những cạm bẫy cuộc đời và luôn tiến về phía trước...”

                                                                                                             N T N H

Sức khỏe cho đồng hương

THẢI ĐỘC CHO CƠ THỂ

Cơ thể chúng ta có thể nói nó giống như một chiếc máy hoàn chỉnh nhất. Hàng ngày cơ thể hoạt động và phải cần nạp năng lượng. Trong quá trình hoạt động, cơ thể của chúng ta cũng tích tụ nhiều chất độc, mà nếu không được đào thải sẽ gây ra nhiều bệnh tật, không tốt cho sức khỏe.

Sự xâm nhập độc tố vào cơ thể chủ yếu bằng ba con đường, đó là con đường ăn uống, con đường hít thở và con đường tiếp xúc qua da. Khi vào cơ thể, các chất độc gây ra ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe mà đặc biệt là làm ảnh hưởng đến quá trình trao đổi chất và quá trình bài tiết không được như ý muốn.

Khi độc tố tồn trong hệ hô hấp, cơ thể dễ bị cảm lạnh thường xuyên, đường hô hấp dễ bị nhạy cảm, ho nhiều và hen suyễn.

Ở hệ tiêu hóa, độc tố gây ra hơi thở bị hôi, làm táo bón, nôn mửa, tiêu chảy…

Khi độc tố lưu trong xương sẽ gây ra các chứng nhức mỏi, đau xường, đau cột sống, đau các khớp.

Trong não, khi dộc tố xâm nhập, sẽ gây ra chứng trầm cảm, mất ngủ, lo âu, thần kinh căng thẳng, mệt mỏi.

Tóm lại, khi độc tố tích lũy ngày càng nhiều, thì gây cho cơ thể nhiều bệnh tật, ảnh hưởng đến chất lượng công việc và chất lượng của cuộc sống. Do vậy chúng ta cần phải tìm các biện pháp để đào thải độc tố ra khỏi cơ thể.

1-Giải độc cho gan

Sống thiếu điều độ, thức đêm quá nhiều, hay nóng giận là những việc làm có thể khiến gan bị tổn thương nghiêm trọng, từ đó gia tăng việc tích trữ các độc tố. Vùng 2 bên mặt và bụng dưới là những nơi phản ánh sức khỏe của gan. Mỗi khi gan có bị nhiễm độc thì ở khu vực này sẽ phát ra các dấu hiệu cảnh báo bằng cách nổi mụn.

Màu xanh là màu đại diện cho gan, khi gan thải độc không tốt thì da mặt sẽ trở nên xanh xao. Khi gan nhiễm độc lại không thể thải độc nhanh, dẫn đến ảnh hưởng đến sự vận hành của khí. Khi cả gan và khí đều có vấn đề, da mặt sẽ xuất hiện mụn trứng cá, thần thái xám xịt, tâm trạng u buồn. Để giải độc gan nên :

Dành cho gan 10 phút mỗi ngày

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng 10 phút mỗi ngày là để đảm bảo cho gan làm việc trong điều kiện tốt nhất.

Yoga là môn thể dục có tác dụng hàng đầu trong việc thải độc. Bạn có thể xem đĩa hoặc tự tập yoga đơn giản trong khoảng 10 phút trước khi đi ngủ. Tiện thể có thể bấm huyệt thái xung giúp thúc đẩy nhanh quá trình thải độc gan. Khi bấm huyệt cố gắng duy trì trong thời gian từ 5-10 phút.

- Tâm trạngtốt giúp giải độc gan tốt

Thói quen uống rượu, ăn uống quá nhiều, quá béo ngậy sẽ làm cho gan trở nên rất "bẩn", vì vậy hãy tạo thói quen tránh những điều này. Ngoài ra, thêm một phương pháp giải độc đơn giản và chắc chắn nhất là hãy duy trì trạng thái tinh thần thoải mái, vui vẻ. Đừng giận dữ và để mình rơi vào trầm cảm, đây chính là cách duy trì chức năng bài tiết và thải độc bình thường nhất cho cơ thể.

-Trà chanh, kỷ tử chính là món đồ uống tốt nhất để dưỡng gan

Thực phẩm màu xanh lá cây chính là món ăn tốt nhất cho gan để thúc đẩy quá trình thải độc, giảm sự ứ trệ và tăng khả năng bài tiết.

Trong đó, dùng chanh tươi cắt thành lát cho vào nước uống như trà là một giải pháp tối ưu. Ngoài ra có thể pha trà kỷ tử và hoa cúc để uống cũng mang lại tác dụng bảo vệ gan, nâng cao chức năng gan trong việc thải độc.

Bên cạnh đó, khoai lang, ngô, rong biển, táo, sữa, hành tây, bí xanh, là những thực phẩm phù hợp để chăm sóc gan, ăn thường xuyên những món này sẽ tăng khả năng giải độc gan.

-Nước mắt chảy ra không chỉ giúp bạn vơi đi nỗi buồn, mà có có lợi ích bất ngờ với sức khỏe. Khi tâm trạng bất ổn, bạn có thể khóc để cho những giọt nước mắt rơi xuống, ví dụ như xem phim cảm động, tiếp xúc với hành cay, bạn hãy để nước mắt chảy tự nhiên. Đây chính là một cách giải độc cho gan không phải ai cũng biết.

Thời gian từ 1-3 giờ là khung "vàng" để chăm sóc gan. Điều bạn nên làm là tắt đèn đi ngủ trước 11h đêm, để đảm bảo rằng từ 1-3h là thời khắc bạn đang ngủ sâu nhất, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho gan làm việc. Điều này cần đặc biệt lưu ý.

a-Cách thải độc cho phổi

Thông thường, mỗi ngày chúng ta hít khoảng 8000 lít không khí vào phổi, kéo theo các loại vi khuẩn, vi rút,bụi, các chất có hại khác đi vào phổi một cách tự nhiên. Nếu tích tụ nhiều các loại nói trên sẽ gây ra nhiều tác hại.

Có 2 cách để thải độc ra khỏi phổi, đó là các bài tập hít thở và ăn mộc nhĩ đen. Khi tập hít thở, nên chọn thời điểm tốt nhất, nơi thoáng đãng, không khí trong sạch rồi hít thật sâu, thở ra thật lâu, có thể ho liền mậy tiếng để tống khứ chất độc ra.

Mộc nhĩ đen, là loại thực phẩm quý, có nhiều khoáng chất, trong mộc nhĩ đen có 1 thành phần kết dính, các chất trong mộc nhĩ đen, có thể giúp làm sạch phổi, sạch huyết quản.

b-Thải độc cho thận

Thận là cơ quan thải độc rất quan trọng của cơ thể.Trong quá trình lọc máu, các chất thải trong máu và protein phân huy3trong quá trình làm việc sẽ được bài tiết qua con đường nước tiểu.

Tuy nhiện, để hỗ trợ cho thận, cần ghi nhớ các điều sau đây:

-Đừng bao giờ nhịn đi tiểu.Nếu nhịn đi tiểu, độc tố trong nước tiểu không kịp thải ra không chỉ gây ra buồn tiểu mà độc tố này sẽ tái hấp thụ vào máu, không tốt cho sức khỏe.

.Hàng ngày nên uống đủ nước. Uống đủ nước, giúp nó pha loãng độc tố, thúc đẩy qua trình chuyển hóa các chất qua thận, giúp thận có điều kiện đẩy độc tố ra bên ngoài.

-Nên có chế độ ăn nhiều trái cây và rau

c-Thải độc cho đại tràng

Chúng ta biết rằng, thực phẩm sau khi tiêu hóa , phần tồn dư độc hại sẽ hình thành và được đẩy xuống đại tràng. Do tác động của quá trình lên men tự nhiên, hình thành ra phân và gây ra mùi hôi. Quá trình này sẽ tạo ra nhiều chất độc. Do chúng ta tiêu hóa thức ăn liên tục nên chất thải cũng tích lũy chất độc liên tục, do vậy nên các chất thải cần phải được thải ra càng sớm càng tốt. Để giúp cho việc thải các chất cặn bả ra thuận tiện, chúng ta cần có thói quen đi đại tiện hang ngày, đúng giờ, tốt nhát là đi đại tiện và buổi sang sau khi ngủ dậy. Cố gắng ăn nhiều trái cây, tang cường chất xơ, uống đủ nước giúp đi dại tiện thuận lợi.

d-Thải độc qua da

Da vừa là nơi độc tố xâm nhập vào cơ thể, cũng là nơi thải chất độc ra khỏi cơ thể bằng mọi cách cho ra mồi hôi để loại bỏ độc tố. Cách người ta hay làm là xông với nước là hay xông hơi, Cũng có thể tập thể dục, thể thao giúp thoải mái, cho ra mồ hôi, thải độc tố qua da.

                                                                                               Thầy thuốc

BÍ QUYẾT SỐNG LÂU

Sống lâu, sống khỏe, sống hạnh phúc là điếu ai cũng muốn hướng tới. Nhưng để có sức khỏe tốt, thì phải biết phấn đấu, tự rèn luyện kiên trì và không mệt mỏi.

Danh y Hải Thượng Lãn Ông trong tập vệ sinh yếu quyết có hướng dẫn về cách sống, sinh hoạt cũng như thái độ tinh thần sao cho có lợi nhất cho sức khỏe, như sau:

- Trong trời đất, con người là quý, đầu đội trời, chân đạp đất, thân thể do cha mẹ để lại nên phải quý trọng.

- Trong năm thứ hạnh phúc, thọ là hơn hết.

- Có 3 điều răn thiết yếu trong phép dưỡng sinh cần phải biết để tránh: sự cố giận, lòng dục lớn và say rượu nhiều. Nếu mắc phải một trong ba điều này, thì ắt thương tổn ít nhiều đến sức khỏe (chân, nguyên khí).

- Muốn sống lâu thì phải răn tính mình trước hết: hỏa không bốc (không nóng nảy) thì tinh thần tự nhiên ổn định, gỗ không bén lửa thì không thành than, người từ răn được tính mình thì có thể sống lâu.

- Người đời muốn hiểu phép dưỡng sinh: khi vui mừng phải điều độ và nên bớt tức giận. Ý thành thực, lòng ngay thẳng thì khỏi phải lo âu; thuận lẽ phải, sửa thân mình thì tránh được phiền não.

- Tóc phải chải luôn, khí nên luyện; răng phải gõ luôn vào nhau, và nước miếng cần nên nuốt.

- Muốn sống lâu, cần tu luyện bộ não, và 2 tay thường xoa xát vào mặt.

- Mùa xuân ít ăn chua và nên ăn ngọt, mùa đông nên ăn đắng không nên ăn mặn, mùa hè cần thêm cay, đừng dùng mặn và đắng, mùa thu bớt dùng cay và thêm chua, tháng cuối mỗi quý có thể ăn mặt, ít ăn ngọt. Như thế thì giữ 5 tạng được an toàn.

- Uống rượu có thể làm cho tình chí vui vẻ, nhưng uống nhiều thì dễ sinh bệnh.

- Cả giận rất hại khí, nghĩ nhiều rất tổn thương tinh thần. Tinh thần mỏi mệt, tâm dễ bị suy yếu. Khí yếu là nguyên nhân sinh ra bệnh. Chớ để sự thương xót và vui mừng đến cực độ.

- Việc ăn uống phải điều hòa, nhất thiết không say rượu về ban đêm, nhất là phải răn mình không giận dỗi vào buổi sáng.

- Yên tinh thần thì vui vẻ, giữ tinh khí được thì ôn hòa. Thọ hay yểu đừng đổ cho "số mệnh”, tu dưỡng được vốn do ở mình.

- Bỏ giận để nuôi dưỡng tính, ít lo nghĩ để nuôi dưỡng thần, bớt nói năng để nuôi dưỡng khí, chậm ham muốn để nuôi dưỡng tâm. Nhìn lâu hại mắt tổn huyết, ngồi lâu thì tỳ tổn hại, đứng lâu thì hại thận tổn xương, nằm lâu thì hại phế tổn khí. Lòng yêu thương gì cũng đừng nên quá yêu, lòng có ghét bỏ thì cũng đừng nên quá ghét. Mùa xuân hạ, nên dậy sớm, mùa thu đông nên ngủ sớm. Ngủ muộn đừng quá lúc rạng đông, dậy sớm đừng trước khi gà gáy.

- Muốn nuôi dưỡng thân thể thì nên nuôi dưỡng tỳ vị trước. Muốn nuôi dưỡng tỳ vị thì phải nuôi dưỡng tâm trước. Muốn nuôi dưỡng tâm thì phải nuối dưỡng thần trước. Muốn nuôi dưỡng thần thì phải nuôi dưỡng khí trước. Muốn nuôi dưỡng khí trước thì phải nuôi dưỡng tinh trước. Muốn nuôi dưỡng tinh thì phải nuôi dưỡng trí trước. Muốn nuôi dưỡng trí trước thì phải biết quý thân mình.

- Tinh, khí, thần là ba của quý ở trong; tai, mắt, miệng là ba của quý ở ngoài. Làm thế nào cho ba của quý ở trong thường không đuổi theo vật chất ở ngoài mà trôi mất, và ba của quý ở ngoài thường không dụ dỗ cái ở trong mà quấy nhiễu. Đêm ngủ không trùm đầu thì việc hít thở đều, chân khí được nối tiếp nhau mà thần tự nhiên được yên ổn. Bữa cơm chiều bớt ăn đi vài miếng thì cốc khí dễ tiêu, tỳ vị được khoan khoái, khí tự nhiên được điều hòa. Ít tình dục, thận thủy dồi dào, tinh tự nhiên được ngưng tụ. Thần yên ổn, khí điều hòa, tinh ngưng tụ, 3 của quý trong thân mình đều đầy đủ, thế là giữ trọn đạo dưỡng sinh.

- Cổ ngữ có câu: cái kiêng trong một ngày là không ăn no bữa tối, cái kiêng trong một tháng là không say quá buổi tối, cái kiêng trong một năm là không đi đâu xa vào buổi chiều, cái nên trong một đời là buổi chiều phải dưỡng khí. Không tắm gội trong luồng gió, rất cần kiêng phong tà. Ăn no chớ gội đầu, sợ sinh chứng phong, mồ hôi đương ra nhiều thì chớ vội cởi áo; đương say rượu, đừng bảo quạt. chớ nhìn mãi vào ánh mặt trời, tối đi ngủ cần rửa chân, đêm ngủ không nên để đèn sáng. Đã sáng ngày thì không nên ngủ.

- Nước bọt không nên nhổ đi (vì nước miếng dư dật là lễ tuyền, tụ lại là hoa trì tan ra là tân dịch, đi xuống là cam lộ (sương giọt) tưới các tạng nhuần thân thể, khai thông các mạch máu, biến hóa nuôi dưỡng thần sắc làm cho thân thể tay chân, lông tóc bóng mượt vững chắc).

- Sáng sớm dùng nước ấm rửa mặt, lấy muối trắng xát răng sẽ không bị bệnh đau răng.

Từ xưa con người đã có ý thức về phép dưỡng sinh để nuôi dưỡng sức khỏe, những lời khuyên như vậy tới nay vẫn còn nguyên giá trị, giúp sống khỏe, sống lâu.

                                                         Thầy thuốc

XUÂN SANG NGÔ LÚA ĐẦY BỒ--Chu Mạnh Cường

Hiện nay, lúa gạo, mỳ, ngô chiếm tới 90% sản lượng lương thực thế giới. Dường như nước nào cũng trồng lúa, ngô hoặc cây ngũ cốc để làm món ăn chính, và mong ước chúng sẽ đầy tràn, đặng có cuộc sống ấm no, khang thái. Ngoài lao động cần cù để làm ra thóc gạo, ở nhiều nơi người dân còn tin rằng, có những vị thần phù hộ dân lành, thường giúp đỡ người trong lao động sản xuất cho mùa màng tươi tốt. Có ngài quản chung nông nghiệp gọi là thần Nông, lại có ngài đảm trách một số ngũ cốc mang tên thần Lúa, Ngô, Kê, Vừng, Đậu. Vì thế, vào xuân Tết, mọi nhà đều làm lễ cúng tế, trong đó có những lời ca, điệu múa, trò chơi mời gọi phúc thần cùng sự mưa thuận gió hòa, mùa vụ bội thu, của cải tài lộc đến với gia đình.

Người Việt vốn có tục thờ thần Nông cùng với mưa, nắng, gió, đất, nước là các yếu tố tự nhiên giúp cây trồng phát triển. Trong văn hóa dân gian, thần Nông là một chàng trai cường tráng, cũng có khi là một cụ lão rắn rỏi, cầm trên tay một nhánh lúa hoặc một cái cày gỗ. Ngài thường vận áo xanh, chu du khắp nơi trồng cây và đặc biệt đã dạy dân trồng ngũ cốc, gặt hái, thu hoạch, chế biến thành món ăn ngon. Để cho mùa vụ tốt tươi, ngài cũng dạy mọi người đào giếng, dẫn nước nhập điền, cày bừa và thuần dưỡng gia súc lấy sức kéo và vỡ đất. Từ cách đây hàng nghìn năm, nhờ thần Nông, người dân đã có con trâu và cái cày, làm rất nhiều công việc đồng áng. Vì thế, ai nấy thường nhớ tới thần qua hình ảnh con trâu, xem nó là biểu thị của đất đai phì nhiêu, sức khỏe lực điền và sự thanh bình no ấm. Hàng năm, nhằm tôn kính thần và cầu nguyện một năm mới thuận hòa- phát đạt, vào mồng bốn Tết, các làng đều làm lễ hạ điền, xuống đồng dọn dẹp cấy trồng lúa ngô mở đầu cho một vụ mới. Cũng có lễ tịch điền, dùng trâu kéo cày cho ruộng đất tơi xốp chuẩn bị cấy lúa. Khắp nơi là một không khí lễ hội sôi động. Cùng các cuộc thi cày, cấy trên đồng thì đây đó là các cuộc thi giã gạo, gói bánh, thổi xôi, nấu chè, làm bỏng từ ngũ cốc. Đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc, Tây Nguyên còn có tục thờ Mẹ Lúa, ý chỉ thần Lúa- do cây lương thực chủ yếu của dân ta là lúa gạo và vì một phần lớn đại chúng theo đạo Mẫu. Mẹ Lúa cũng là một thiếu nữ xinh đẹp, thường ẵm trên tay một bó lúa và mặc những xiêm áo thướt tha. Đôi khi mẹ hiện lên dưới hình dạng một cụ bà lưng mang giỏ thóc, vừa đi vừa gieo hạt. Tương tự thần Nông, con vật của Mẹ Lúa ở Tây Bắc là những con cá rô đồng và Tây Nguyên là những chú chim polang mang tới sự sinh sôi, trù mật. Người dân ở đây có khá nhiều nghi lễ liên quan đến lúa ngô, mà nổi bật là lễ xuống đồng, ăn cơm mới, vòng đời lúa và Tết cổ truyền. Trong đó mọi người ca hát, nhảy múa, gọi mời hồn lúa về với bản làng, xem trong từng hạt thóc có những linh hồn thịnh vượng. Ai nấy đổ ra đồng, ra các kho thóc và dựng trước nhà sàn, nhà rông những cây nêu, cây tre tượng trưng cho cây lúa, bên trên trổ những bông lúa thật to, những chùm hoa lúa bung tròn cùng những giỏ đựng thóc gạo và chạy nhảy thình thịnh nhằm đánh thức hồn lúa, khơi dậy sức mạnh từ đất để gia đình, quê hương phát triển thái bình.

Một số dân tộc Đông Nam Á như người Indonesia tại các đảo Java, Sudan, Bali vào xuân lại hướng tới nữ thần Dewi Sri. Bà vừa là thần lúa vừa là thần phúc, ngoài thiên nhiên đem lại vụ mùa trĩu hạt, ở trong nhà quản lý thóc gạo, của cải, việc sinh nở. Nữ thần thường hiện lên dưới dạng một thiếu nữ duyên dáng, từ đầu tóc, đôi tay và vạt áo tỏa ra những bông lúa vàng óng ánh. Trên tay đôi khi cũng cầm một bình nước tuôn xả cam lồ, vàng ngọc. Để giữ cho gia đình sung túc, mỗi nhà đều có một hương án thờ thần lúa. Xung quanh trang trí họa tiết rồng rắn và bày một chiếc lưỡi liềm cùng nhiều bánh gạo. Vì rắn là vật cưỡi của bà, trong mùa gặt mỗi khi gặp rắn, người dân đều cho chúng ăn, coi đó là điềm lành báo trước vụ lúa đầy kho. Trước khi gieo trồng, thu hoạch, đón Tết, họ luôn làm lễ mapag Sri, giống người Việt là mời gọi Sri vào nhà. Nông dân sẽ hát vang hai ca khúc Pangemat và Angin-angin có ý đón rước nữ thần hạ phàm và chúc cây lúa trĩu bông.

Vào tuần trăng đầu tiên của tháng ba âm lịch, gần Tết Songkran của Thái Lan, dân gian nước này đều có lễ hội cúng mừng nữ thần - Mẹ Lúa Phosop. Người phù hộ cho sự sinh sôi cùa lúa trên đồng. Bà ngự ngay trên ruộng và ẩn mình vào những cây lúa. Nữ thần có lúc choàng áo xanh, có lúc diện áo vàng theo từng thời kỳ của cây, và được cúng tế ba lần trong một vụ mùa. Lần một khi lúa ngậm đòng, lần hai thu hoạch và lần ba khô nỏ. Lần cuối cùng, người ta sẽ trưng hình ảnh bà ngồi ôm một bó lúa trên vai phải, tay còn lại vẫy gọi. Người Thái thường cúng Mẹ lúa bằng những bát gạo-đĩa bánh ngọt và gọi hồn lúa bằng việc chất lúa cao và hát múa xung quanh. Đồng thời nhiều thiếu nữ đẹp đóng vai nữ thần ghé thăm từng nhà. Vào mỗi tháng năm, người dân và hoàng gia Thái cũng làm lễ tịch điền. Trong nghi lễ hoàng gia, đức vua sẽ trực tiếp xuống đồng cày cấy. Nghi lễ này đã được duy trì trong suốt 700 năm qua tại cánh đồng Sanam Luang phía trước Hoàng Cung để cảm tạ thần lúa, dự báo thời tiết và cầu quốc thái dân an.

Tộc người Ifugao ở làng Batad, đảo Luzon, miền trung Philipin cũng xem những pho tượng Bulul là thần bảo hộ ruộng đồng. Ruộng của họ là những ruộng bậc thang nên canh tác gặp rất nhiều khó khăn. Vì thế, họ đã tạo ra những bức tượng một nam một nữ, có ý nghĩa phồn thực nhằm tăng độ phì nhiêu của đất, sự xanh tươi của lúa và xua đuổi thú dữ, bệnh tật. Về đại thể, chúng có kích thước như người thật, hoặc đứng hoặc ngồi và cầm trên tay những cái rổ to, đựng thóc. Một số nằm ngoài đồng, một số ở trong kho hoặc đại sảnh cho nhiều lúa gạo. Cũng giúp gia đình hạnh phúc, đông con nhiều cháu, ăn ở nề nếp. Bulul bao giờ cũng được trao cho con trưởng, thể hiện vị trí trụ cột của người đàn ông trong nhà. Vào xuân, người Ifugao đẽo rất nhiều tượng, nhúng với tiết gà là con vật bắt sâu, cào đất và kêu gọi những tia nắng ấm cho cây lúa sinh sôi.

Ở Nhật Bản, cha mẹ thường dạy con ăn cơm phải nhai kỹ, chứ đừng phung phí hạt nào bởi vì trong mỗi hạt ấy có tới bảy phúc thần, đem tới no ấm, tài lộc, niềm vui. Đặc biệt có một vị thần là thần lúa Tano Kami hay Tano Kansa cho cái ăn. Và nếu như không được tôn trọng, ngài sẽ tức giận bỏ đi, từ đó gia đình túng quẫn. Người Nhật vì thế rất tôn kính thần lúa. Tại các cánh đồng luôn đặt tượng thần lúa , và trong nhà cũng có các hũ gạo dán giấy đỏ ghi tên thần, với mong muốn thịnh đạt. Cùng tượng thần cũng thấy tượng và hình ảnh con cáo, ngựa, bò là vật cưỡi của thần. Trong các lễ hội ca ngợi thần lúa như lễ hội ở Aomori, Osaka, Yamaguchi… mọi người đều nhảy múa diễn tả các động tác cấy, cày, gặt, hái, sàng, sảy. Bên cạnh những lời ca réo rắt, vũ điệu nhịp nhàng, không thể thiếu những trận đấu mà võ sĩ sẽ dậm chân xuống đất để nhắc nhở thần linh liên tục để mắt tới cây lúa và xua đuổi chuột bọ, côn trùng.

Trong văn hóa Hy Lạp và nhiều nước phương Tây, nữ thần Demeter là người nuôi sống xứ sở. Bà là thần nông cũng là thần đất do đảm nhiệm từ chuyện gieo trồng, bảo quản, thu hoạch các loại hạt tới việc giữ gìn sự màu mỡ cho đất, tái sinh cây cỏ sau vụ gặt. Bà cũng là người bảo hộ cho nghề xay sát và làm bánh nên ta mới có các món ăn. Hàng năm, ở Athens, mọi người đều dành ba ngày làm lễ hội ngưỡng mộ Demeter. Phụ nữ sẽ tự tay nghiền bột, nhào bánh, hấp nướng nấu một bữa cỗ nghiêm chỉnh dâng lên bà. Tại Italia, Demeter được đồng hóa với nữ thần Ceres. Cả hai người cùng có một hình dạng, một chức năng nên tùy lúc có thể gọi là Demeter hoặc Ceres. Tuy nhiên, Ceres có ảnh hưởng lớn hơn, vì từ cái tên của bà, thế giới đã có từ cereal- ngũ cốc, ý chỉ những cây lương thực chính nuôi sống nhân loại. Từ Ceres, cũng có từ creat, nghĩa là sáng tạo hay chế tác, cho thấy sự đa tài của bà trong nhiều lĩnh vực. Thực ra bà chính là linh hồn của lúa mỳ, bắp ngô và bí đỏ. Là con gái của thần nông Saturn, cùng với cha, bà luôn giữ cho lúa ngô tươi tốt. Dân gian châu Âu tổ chức tới hai lễ hội tán dương Ceres, một vào 19 tháng tư kéo dài trong bảy ngày khi bắt đầu gieo hạt và một vào giữa tháng tám lúc cây lúa được hái về trữ trong kho. Hình ảnh của bà là một phụ nữ xinh đẹp, ôm những bó lúa, ngô vàng cùng một rổ đầy quả, hạt.

Cũng như Đông Nam Á có Mẹ Lúa, Bắc Mỹ có Mẹ Ngô. Tùy theo các dân tộc, đó sẽ là một cô gái hay một bà lão nhiều phép thuật và đều xuất hiện khi trong vùng có nạn đói, và chỉ bằng việc cọ sát vào người thì ngô, mễ tuôn ào ào. Khi mất, từ thân thể họ cũng mọc ra hàng vạt ngô. Trong tiếng Cherokee và Pueblo Indians, Mẹ Ngô là Selu. Đây là người phụ nữ đầu tiên xuất hiện trên trái đất có tên ngô. Lúc còn sống, bà đã đi khắp nơi cứu đói do vậy được tôn thờ bởi tất cả các thổ dân. Và như thánh Santa Claus, ở Mỹ bà được gọi là Santa Clara, thường xuất hiện với chiếc mũ làm bằng hạt, bắp và áo từ lá, râu ngô.

Tại Trung Mỹ, các dân tộc chịu ảnh hưởng của văn minh Aztecs lại tôn sùng thần ngô Centeotl, con trai của thần đất Tlazolteotl và thần mặt trời Piltzintecuhtli. Ngài là một nam thần trẻ trung, với nước da sáng vàng và một mái tóc bồng bềnh màu xanh hay một cái mũ lá, bắp căng hạt. Do ngô là lương thực chính ở đây nên Centeotl là tối đẳng phúc thần. Đi cạnh thần, còn có nữ thần Chicomecoatl là biểu tượng của sự sinh sản và bền vững. Bà thường phết đỏ tay chân, ôm bảy loại rắn màu hoặc những rổ ngô vàng óng vì vậy còn được gọi là Xilonen- búp bê ngô. Cả hai người lập nên một bộ đôi thần nông, đem lại sự dồi dào của các giống ngô trong khu vực. Mỗi khi đến mùa ngô, lễ Tết, người Mexico luôn cầu hai vị và mặc trang phục màu vàng rực rỡ.

Pachamama được xem là bà mẹ của vũ trụ, nữ thần của đất- trồng trọt ở vùng núi Andes và các nước Peru, Chile, Bolivia... Nữ thần đã xuất hiện từ văn minh Inca và vẫn còn ảnh hưởng tới nay. Bằng chứng là hàng năm, nhiều người vẫn cúng tế bà, xem bà là tổng hợp của bốn yếu tố sự sống gồm nước, đất, lửa (mặt trời) và gió (mặt trăng). Nữ thần ngự ở tất cả các dòng sông, ngọn núi. Khi ở dạng người thì là một phụ nữ ôm những bó lúa, ngô, khoai, ca cao.

Braciaca là thần nông đặc biệt nhất trong các vị thần nông nghiệp vì bà chỉ chăm sóc lúa mạch và các cây ngũ cốc phục vụ cho việc nấu bia. Tại các nước Tây Âu, nữ thần được yêu chuộng nhất vì họ dùng bia rất nhiều, với quan niệm say sưa có thể đến thiên đường. Mỗi khi cụng ly, người ta đều nhớ tới bà. Ở Pháp, mỗi lần thu hoạch nho và lưu hành một loại rượu mới, đều có lễ rước hình ảnh nữ thần một tay ôm bó lúa mạch, một tay cầm cốc rượu to. Đến nay, mọi người đều cho rằng, cùng với việc ăn cơm hay bánh đẫy bụng thì giải khát với chút rượu bia cũng góp phần to lớn, tạo ra không khí ấm cúng và vui vẻ trong ngày xuân.

                                                                                                 CMC

CHUYỆN VUI NĂM CON HEO

THIẾU LỢN ĐÀNH MẤT VỢ

Ngày trước, ở Vỹ Dạ (Huế) có một bà góa chồng thường gọi là bà Huyện Thi. Bà này có cô con gái tuổi vừa đôi chín rất xinh đẹp tên là Chuột, được nhiều vương tôn công tử say mê. Trong đó có "mệ” Cò Theo, cháu của nhà thơ Tuy Lý Vương (Những người trong dòng họ hoàng tộc, dù già trẻ gái trai đều gọi là "mệ”). Chàng Cò Theo đã nói cha mẹ xin làm lễ hỏi. Nhà gái yêu cầu: Cứ đến dịp Tết hay kỵ giỗ, nhà trai phải đem đến một con lợn kể từ sau lễ hỏi.

Gia đình Cò Theo đã mất cho bà Huyện Thi 4 con lợn (ở Huế gọi là heo) mà ngày cưới còn xa lắc xa lơ nên gia đình Cò Theo dù là dòng Vương tôn quý tộc cũng không chịu được gánh nặng. Rồi nhà gái còn thách cưới quá nặng nên nhà trai đành bỏ cuộc.

Thế là Cò Theo mất vợ. Cò Theo đi lấy vợ khác nhưng cũng uất ức bèn tìm cách trả đũa. Khi sinh con đầu lòng, Cò Theo đặt tên là Mèo (để Mèo cắn cổ Chuột – Chuột là tên con gái bà Huyện Thi).

Nhà thơ Hồng Sâm, con của Tuy Lý Vương đã sáng tác bài thơ trào phúng sau đây để chếnhạo:

Không ai như thể "mệ” Cò Theo.

Một "Chuột” mà làm mất bốn heo.

Giận mụ Huyện Thi toan cắn cổ

Sinh con nên phải đặt tên "Mèo”!

NVH

NHỮNG CHUYỆN KỲ THÚ VỀ LỢN

-LỢN HAI ĐẦU:

Một gia đình ở tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) đã vô cùng ngạc nhiên khi con lợn nái của họ sinh một chú lợn con hai đầu. Ban đầu, cả nhà lo sợ song chẳng mấy chốc hàng xóm biết tin đến xem và mọi người đều thích thú. Cả đàn 10 chú lợn mới sinh nhưng chỉ có chú lợn hai đầu gặp khó khăn khi bú sữa nên hơi yếu đi. Điều kỳ thú là cả hai cái đầu có chung mắt và điều khiển được 2 cái mồm cùng kêu.

-LỢN LÀM CẢNH SÁT:

Đó là chú lợn rừng do một thanh tra cảnh sát người Đức nuôi và được biên chế chính thức như là một nhân viên chuyên dò tìm thuốc phiện, chất nổ. Thanh tra Cảnh sát kể rằng: Ông chú ý tới chú lợn Luize sau khi nó được 4 tuần tuổi tại một công viên bảo tồn. Thanh tra Franke liền đem nó về nhà dạy thử và phát hiện khả năng bẩm sinh của Luize trong việc phát hiện tội phạm. Sau đó, Luize được đưa vào trường huấn luyện bài bản hơn nhằm chuyên đánh hơi tìm bạch phiến.

Khi được 9 tuần tuổi, Luize đã phát hiện ra mẻ heroin đầu tiên giấu trong một chiếc vali. Giờ đây, Luize có khả năng đánh hơi thấy mọi loại thuốc phiện dưới đất sâu 1,5m và cả các loại chất nổ cũng như xác chết trên khắp một diện tích rộng.

-MÁY BAY ĐỤNG LỢN:

Chiếc máy bay MA 60 của hang Air Zimbawe chạy khởi động chuẩn bị cất cánh, thì văng khỏi đường băng vì đụng một con lợn hoang đang chạy qua. Lập tức, tiếp viên Hàng không cho mọi người sơ tán khỏi máy bay, nhưng một trong những cửa thoát hiểm không hoạt động. Hệ thống cứu trợ khẩn cấp của sân bay phải mất 5 phút mới tiếp cận được. May thay tất cả 37 hành khách và phi hành đoàn đều thoát ra được, nhưng máy bay thì bị hỏng nặng.

-CON LỢN TRUNG THÀNH:

Ở Ba Lan, có người gác rừng tên là Bilasik, khi đi tuần tra đã tìm thấy một chú lợn rừng bị lạnh cóng, anh ta bèn đem về nuôi và đặt tên là Woszies. Hàng ngày, chú lợn rừng này chơi đùa với trẻ em, là chó giữ nhà và dẫn chủ đi kiểm tra rừng.

- MẸ CHÓ NUÔI CON LỢN:

Chuyện xảy ra tại một gia đình nông dân ở Fonfria de Alba thuộc Tây Ban Nha. Sau khi sinh ra 4 lợn con, lợn mẹ qua đời. Do vậy, chủ phải cho lợn con bú sữa bò đựng trong bình nhưng lợn con không hợp lắm nên gầy đi.

Trong nhà có một chó cái tên Linda cũng vừa sinh ra 2 chó con. Không may, 2 chó con chết vì bị xe ngựa đè phải. Chủ nhà bỗng nảy ra sáng kiến đem 4 lợn con cho bú sữa của Linda. Linda đã cho 4 lợn con bú sữa thật ngon lành!

-LỢN TRỞ THÀNH HỌA SỸ:

Chú lợn Pinto, 2 tuổi tại bang Illinois (Mỹ) đã được phong danh hiệu "họa sỹ” sau khi hoàn thành tác phẩm nghệ thuật là một bức tranh độc đáo. Chú lợn thuộc giống Yucatan. Mặc dù các thao tác bằng chân và mõm không được chuyên nghiệp cho lắm nhưng với bút lông, bảng màu, sau vài giờ đồng hồ thì Pinto cũng đã hoàn thành bức tranh. Tác phẩm ấn tượng của chú là một trong những đồ vật được các em nhỏ yêu thích khi tới thăm công viên Brookfield. Sau khi trưng bày, bức tranh được mang bán đấu giá trên mạng.

-THẾ VẬN HỘI DÀNH CHO LỢN:

Lợn không biết bay, nhưng bơi và lặn thì vô tư, như các "thí sinh” lợn ở Thế vận hội lợn tại Trung Quốc mới đây biểu diễn cho mọi người xem. Hàng ngàn người đã đổ về công viên Heping ở Bắc Kinh để xem 20 chú lợn Thái Lan tham gia các hội thi thể thao với lợn Trung Quốc. Các "vận động viên” điền kinh không chỉ chạy, hò hét, nhảy qua vòng lửa mà chúng còn biết bơi và lặn dưới sự cổ động của hàng ngàn người xem. Những chú lợn dễ thương này là loài có năng khiếu bẩm sinh đặc biệt. Nhờ được đào tạo sớm sau khi chào đời, tất cả đều thành "vận động viên” chuyên nghiệp sau đó một năm.

-THI THỜI TRANG CHO LỢN:

Một cuộc thi thiết kế và biểu diễn thời trang dành cho lợn được các nhà nhiếp ảnh phối hợp với Hội nông dân vùng Grafham (Anh) tổ chức, thu hút hàng trăm hồ sơ dự thi. Cuộc thi được diễn ra sôi nổi, gồm 2 phần: Lợn biểu diễn thời trang trên sân và thi qua ảnh đẹp. Giải thưởng lớn thuộc về cô Sellar vớithời trang dành cho lợn mẫu rất dễ thương và sành điệu!

- MỠ LỢN – VŨ KHÍ CHỐNG ĐÁNH BOM TỰ SÁT:

Cảnh sát Israel đã treo lủng lẳng những túi mỡ lợn trên xe bus và những nơi công cộng nhằm "át vía” những ai đang có ý định trở thành chiến binh Hồi giáo đánh bom liều chết. Ngoài ra, các công dân nước này còn trang bị sung phun mỡ lợn để trấn áp kẻ tình nghi đánh bom tự sát.

Theo giáo luật đạo Hồi thì tín đồ nào chạm vào mỡ lợn sẽ bị trừng phạt sau khi chết!

-THI TIẾNG LỢN KÊU:

Pháp, người dân thường tổ chức cuộc thi của những người bắt chước tiếng lợn kêu như khi bị chọc tiết. Vừa qua, hơn 2000 người đã tham gia cuộc thi vô địch toàn quốc về môn bắt chước tiếng lợn kêu eng éc, xem ai kêu to và giống tiếng lợn nhất. Qua nhiều đợt sàng lọc, cuối cùng cuộc thi đã chọn được 1 người thắng cuộc. Giải thưởng rất đặc biệt: Đó là một con lợn quay và 3000 Franc!

- LỢN TẤN CÔNG CƯỚP:

Khi nhìn thấy bà chủ của mình đang bị bọn cướp tấn công ở gara, chú lợn có tên là Arnort, nặng khoảng 100 kg đã lao vào tên cướp đang cầm súng, cú húc mạnh đã làm tên này ngã xuống và hắn bỏ chạy thục mạng. Sau đó, arnolt quay sang uy hiếp tên cướp còn lại, cú húc mạnh của chú lợn làm khẩu súng văng ra khỏi tay tên này. Cuối cùng, tên cướp phải đứng chết gí ở góc tường. Hành động dũng cảm của chú lợn Arnolt đã được Hội đồng thành phố Minneapolis (Mỹ) biểu dương và khen thưởng!

                                                           NGUYỄN VĂN HIẾU

                                                            Thành phố Huế

QUÁN ĂN CỦA NGƯỜI QUẢNG TRỊ TẠI TP HỒ CHÍ MINH

QUÁN 74

Nói đến quán 74, chuyên bán các món đặc sản, thì có lẽ rất nhiều người đã biết, quán nằm ở địa chỉ 47 đường Núi Thành, quận Tân Bình, TP.Hồ Chí Minh.

Theo như chị chủ quán thì quán 74 đã tồn tại được hơn 6 năm rồi. Thực đơn của quán có nhiều, nhưng chủ yếu là những món quen với hương vị của quê hương Quảng Trị như:

-Cá khoai nấu với rau me đất

-Bánh bột lôc, bánh ướt, bún xào lòng nghệ

-Cá trê chiên nước mắm gừng với dưa muối

-Sức kẹp cà,vã, khế , mắm ruốc….

Giờ thì không chỉ khách là người quê gốc Quảng Trị hay đến thưởng thức mà còn cả khách của thành phố Hồ Chí Minh và các nơi khác đều ưa thích

Nhân đầu năm mới, tạp chí NHỊP HIỀN LƯƠNG xin giới thiệu với bà con đồng hương, những ai chưa biết đến quán 74, thì hãy đến đó một lần cho biết và để ủng hộ cho quán của một người con quê hương.


NHỮNG CHUYỆN KỲ THÚ VỀ LỢN—Nguyễn Văn Hiếu

-LỢN HAI ĐẦU:

Một gia đình ở tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) đã vô cùng ngạc nhiên khi con lợn nái của họ sinh một chú lợn con hai đầu. Ban đầu, cả nhà lo sợ song chẳngmấy chốc hàng xóm biết tin đến xem và mọi người đều thích thú. Cả đàn 10 chú lợnmới sinh nhưng chỉ có chú lợn hai đầu gặp khó khăn khi bú sữa nên hơi yếu đi. Điềukỳ thú là cả hai cái đầu có chung mắt và điều khiển được 2 cái mồm cùng kêu.

-LỢN LÀM CẢNH SÁT:

Đó là chú lợn rừng do một thanh tra cảnh sát người Đức nuôi và được biên chế chính thức như là một nhân viên chuyên dò tìm thuốc phiện, chất nổ. Thanh tra Cảnh sát kể rằng: Ông chú ý tới chú lợn Luize sau khi nó được 4 tuần tuổi tại một công viên bảo tồn. Thanh tra Franke liền đem nó về nhà dạy thử và phát hiện khả năng bẩm sinh của Luize trong việc phát hiện tội phạm. Sau đó, Luize được đưa vào trường huấn luyện bài bản hơn nhằm chuyên đánh hơi tìm bạch phiến.

Khi được 9 tuần tuổi, Luize đã phát hiện ra mẻ heroin đầu tiên giấu trong một chiếc vali. Giờ đây, Luize có khả năng đánh hơi thấy mọi loại thuốc phiện dưới đất sâu 1,5m và cả các loại chất nổ cũng như xác chết trên khắp một diện tích rộng.

- MÁY BAY ĐỤNG LỢN:
Chiếc máy bay MA 60 của hang Air Zimbawe chạy khởi động chuẩn bị cất cánh, thì văng khỏi đường băng vì đụng một con lợn hoang đang chạy qua. Lập tức, tiếp viên Hàng không cho mọi người sơ tán khỏi máy bay, nhưng một trong những cửa thoát hiểm không hoạt động. Hệ thống cứu trợ khẩn cấp của sân bay phải mất 5 phút mới tiếp cận được. May thay tất cả 37 hành khách và phi hànhđoàn đều thoát ra được, nhưng máy bay thì bị hỏng nặng.

-CON LỢN TRUNG THÀNH:

Ở Ba Lan, có người gác rừng tên là Bilasik, khi đi tuần tra đã tìm thấy một chú lợn rừng bị lạnh cóng, anh ta bèn đem về nuôi và đặt tên là Wos zies. Hàng ngày, chú lợn rừng này chơi đùa với trẻ em, là chó giữ nhà và dẫn chủ đi kiểm tra rừng.

-MẸ CHÓ NUÔI CON LỢN: Chuyện xảy ra tại một gia đình nông dân ở Fonfria de Alba thuộc Tây Ban Nha. Sau khi sinh ra 4 lợn con, lợn mẹ qua đời. Do vậy, chủ phải cho lợn con bú sữa bò đựng trong bình nhưng lợn con không hợp lắm nên gầy đi.

Trong nhà có một chó cái tên Linda cũng vừa sinh ra 2 chó con. Không may, 2 chó con chết vì bị xe ngựa đè phải. Chủ nhà bỗng nảy ra sáng kiến đem 4 lợn con cho bú sữa của Linda. Linda đã cho 4 lợn con bú sữa thật ngon lành!

- LỢN TRỞ THÀNH HỌA SỸ:

Chú lợn Pinto, 2 tuổi tại bang Illinois (Mỹ) đã được phong danh hiệu "họa sỹ” sau khi hoàn thành tác phẩm nghệ thuật là một bức tranh độc đáo. Chú lợn thuộc giống Yucatan. Mặc dù các thao tác bằng chân và mõm không được chuyên nghiệp cho lắm nhưng với bút lông, bảng màu, sau vài giờ đồng hồ thì Pinto cũng đã hoàn thành bức tranh. Tác phẩm ấn tượng của chú là một trong những đồ vật được các em nhỏ yêu thích khi tới thăm công viên Brookfield. Sau khi trưng bày, bức tranh được mang bán đấu giá trên mạng.

-THẾ VẬN HỘI DÀNH CHO LỢN:

Lợn không biết bay, nhưng bơi và lặn thì vô tư, như các "thí sinh” lợn ở Thế vận hội lợn tại Trung Quốc mới đây biểu diễn cho mọi người xem. Hàng ngàn người đã đổ về công viên Heping ở Bắc Kinh để xem 20 chú lợn Thái Lan tham gia các hội thi thể thao với lợn Trung Quốc. Các "vận động viên” điền kinh không chỉ chạy, hò hét, nhảy qua vòng lửa mà chúng còn biết bơi và lặn dưới sự cổ động của hàng ngàn người xem. Những chú lợn dễ thương này là loài có năng khiếu bẩm sinh đặc biệt. Nhờ được đào tạo sớm sau khi chào đời, tất cả đều thành "vận động viên” chuyên nghiệp sau đó một năm.

- LỢN ĐẺ RA GIỐNG VOI: Năm 2006, một con lợn mẹ được nuôi trong vườn Trường ngoại ngữ Dương Minh tại xã Tam Phước, Long Thành, Đồng Nai đã đẻ một lứa 14 lợn con; 13 con đầu rất bình thường, đến con thứ 14 thì chuyện kỳ thú xảy ra. Nó có hình dạng giống voi con: Tai to, mũi dài khoảng 4 cm, 4 móng cong dài như mang hài, lưỡi to nhọn. Chú lợn này chỉ sống được 1 giờ sau khi sinh. Hiện nay, chú lợn được ngâm Formol để bảo quản.

-NƠI LỢN NHIỀU HƠN NGƯỜI:

Năm 2014, Hội nông dân bang Hạ Saxony đã thống kê và cho biết: Số lợn đã vượt lên trên số dân, cụ thể số lợn đã lên tới hơn 8,2 triệu con; vì giá lợn tăng làm mọi người đua nhau chăn nuôi lợn. Trong khi đó, dân số của bang này chỉ đạt 7,9 triệu người.

-THI THỜI TRANG CHO LỢN:

Một cuộc thi thiết kế và biểu diễn thời trang dành cho lợn được các nhà nhiếp ảnh phối hợp với Hội nông dân vùng Grafham (Anh) tổ chức, thu hút hàng trăm hồ sơ dự thi. Cuộc thi được diễn ra sôi nổi, gồm 2 phần: Lợn biểu diễn thời trang trên sân và thi qua ảnh đẹp. Giải thưởng lớn thuộc về cô Sellar với thời trang dành cho lợn mẫu rất dễ thương và sành điệu!

-MỠ LỢN – VŨ KHÍ CHỐNG ĐÁNH BOM TỰ SÁT:

Cảnh sát Israel đã treo lủng lẳng những túi mỡ lợn trên xe bus và những nơi công cộng nhằm "át vía” những ai đang có ý định trở thành chiến binh Hồi giáo đánh bom liều chết. Ngoài ra, các công dân nước này còn trang bị sung phun mỡ lợn để trấn áp kẻ tình nghi đánh bom tự sát. Theo giáo luật đạo Hồi thì tín đồ nào chạm vào mỡ lợn sẽ bị trừng phạt sau khi chết!

-THI TIẾNG LỢN KÊU:

Ở Pháp, người dân thường tổ chức cuộc thi của những người bắt chước tiếng lợn kêu như khi bị chọc tiết. Vừa qua, hơn 2000 người đã tham gia cuộc thi vô địch toàn quốc về môn bắt chước tiếng lợn kêu eng éc, xem ai kêu to và giống tiếng lợn nhất. Qua nhiều đợt sàng lọc, cuối cùng cuộc thi đã chọn được 1 người thắng cuộc. Giải thưởng rất đặc biệt: Đó là một con lợn quay và 3000 Franc!

- LỢN TẤN CÔNG CƯỚP: Khi nhìn thấy bà chủ của mình đang bị bọn cướp tấn công ở gara, chú lợn có tên là Arnort, nặng khoảng 100 kg đã lao vào tên cướp đang cầm sung, cú húc mạnh đã làm tên này ngã xuống và hắn bỏ chạy thục mạng. Sau đó, arnolt quay sang uy hiếp tên cướp còn lại, cú húc mạnh của chú lợn làm khẩu sung văng ra khỏi tay tên này. Cuối cùng, tên cướp phải đứng chết gí ở góc tường. Hành động dũng cảm của chú lợn Arnolt đã được Hội đồng thành phố Minneapolis (Mỹ) biểu dương và khen thưởng!

                                                                                        NVH

SÔI ĐỘNG NGÀY HỘI VUI CỦA ĐỘNG VẬT –Chu Mạnh Cường

Để ca ngợi tự nhiên, cảm tạ những con vật, đặc biệt là vật nuôi và giới thiệu phong tục- tập quán liên quan đến loài vật. Từ lâu, trên thế giới đã có nhiều ngày hội dành cho động vật, mà ở đó chúng được yêu mến, chăm sóc và tham gia nhiều trò vui hấp dẫn.

Thường thấy nhất trong các ngày hội động vật là Lễ Phóng sinh được dân gian các nước Phật giáo thực hiện vào các ngày rằm- mồng một, lễ Phật Đản, lễ vía Bồ Tát, lễ Vu Lan…, để giải thoát cho những con vật bị giam hãm. Với mong muốn về một thế giới hòa bình- an lạc, vào ngày này, mọi nhà nuôi động vật hay săn bắn đều trả chúng về tự nhiên. Ai nấy đổ ra đồng ruộng, hồ ao thả các con vật, đưa đây trở thành một ngày hội của toàn dân thể hiện tình yêu đối với sự sống - môi trường. Trên bầu trời do đó ngợp cánh chim bay và mặt nước sôi động cá, tôm cùng với muôn vàn thanh sắc.

Một ngày hội nữa cũng diễn ra vào mồng hai Tết ở nhiều nước châu Á, nhất là Trung Quốc, là ngày hội Cún cưng. Người Trung Quốc xem mồng hai Tết, tức mồng hai tháng giêng là ngày sinh của chó. Vì thế, nhà nào nuôi chó cũng chuẩn bị một buổi tiệc thịnh soạn cho những chú cún cùng nhiều quà tặng như áo quần, giày dép, mũ nón đẹp. Không chỉ kỷ niệm ngày sinh của một thành viên, mọi người cũng tôn kính chó vì nó là một trong 12 con giáp phù hộ trần gian hàng năm, với đức tính thông minh, gan dạ và trung thành. Họ dành tới 15 ngày từ mồng hai Tết chăm sóc chó, thường dẫn chúng dạo phố, trình diễn thời trang...

Do tục thờ rắn, vào tháng bảy, tháng tám hay tháng Shravan trên khắp Ấn Độ, Nepal và nhiều nơi của người Hindu, sẽ có lễ hội rắn Naga Panchami, theo đó người dân tỏ lòng sùng bái trước loài rắn, mong chúng sẽ ban phước và không cắn người. Trong tháng này, phụ nữ các làng đều đi đền, làm lễ tại gia hoặc các ụ đất có hang rắn. Người dân cho rằng, rắn là sinh vật tạo ra thế giới nên họ cúng rắn rất long trọng. Trong lễ phẩm thường có sữa, đường, bánh kẹo... Mọi thứ được đặt trên nền nhà trước hình vẽ rangoli của một chú rắn và quanh các hang hốc. Sau đó, mọi người rót sữa vào hang để dâng thần rắn. Họ cũng vẽ, dán tranh rắn cùng những câu kệ có ý nghĩa tốt lành mang tới mùa vụ bội thu.

Cũng tại Nepal trong tháng tám, tháng chín hay tháng Bhadra tiếp tục có lễ hội Kukur Tihar tôn vinh quạ, chó và bò. Ngày thứ nhất của lễ hội được dành cho quạ, với nhiều bánh kẹo đặt trên mái nhà để chúng ăn và không gây phiền nhiễu nữa. Ngày thứ hai là ngày của chó, cũng có nhiều món ăn, ngoài ra là các vòng hoa tặng chó, mong chúng sẽ trung thành bảo vệ chủ. Ngày thứ ba là ngày của bò. Do làm nông nghiệp dựa vào bò, nên mọi người rất yêu mến bò, cứ gặp chúng là cúi chào và cho ăn những bó cỏ thật tươi, đeo những vòng hoa tuyệt đẹp. Người ta cũng dẫn bò đi chơi mong một cuộc sống an nhàn, sung túc.

Ở Nam Mỹ, nhất là Bolivia vào ngày 6 tháng tám cũng có lễ hội cảm tạ chó, gọi là ngày của Thánh Roch. Chuyện kể rằng, Thánh Roch bị thương trong rừng. Thật may, có một chú chó đã tìm thấy ngài, cho ngài ăn và trị vết thương. Từ đó, các nhà thờ vào ngày này đều làm lễ ban phước cho chó. Những chú cẩu sẽ được gia chủ dẫn tới giáo đường, nghe giảng đạo và chúc phúc. Nhà thờ cũng tổ chức nhiều hội vui cho chúng nhảy múa, vui đùa, ăn uống. Tương tự, tại Italia vào mồng 4 tháng 10 có Tiệc của thánh Francis, là vị thánh bảo hộ Italia và người có lòng từ mẫn với các con vật. Từ năm 1585, tòa thánh đã thực hiện lễ ban phước cho muôn loài. Vào Tiệc của thánh Francis, các vật nuôi như ngựa, chó, cừu, dê, lợn, bò đều được chúc phúc và ăn một bữa tiệc no nê

Ngày thứ nhất của lễ hội được dành cho quạ, với nhiều bánh kẹo đặt trên mái nhà để chúng ăn và không gây phiền nhiễu nữa. Ngày thứ hai là ngày của chó, cũng có nhiều món ăn, ngoài ra là các vòng hoa tặng chó, mong chúng sẽ trung thành bảo vệ chủ. Ngày thứ ba là ngày của bò. Do làm nông nghiệp dựa vào bò, nên mọi người rất yêu mến bò, cứ gặp chúng là cúi chào và cho ăn những bó cỏ thật tươi, đeo những vòng hoa tuyệt đẹp. Người ta cũng dẫn bò đi chơi mong một cuộc sống an nhàn, sung túc.

Ở Nam Mỹ, nhất là Bolivia vào ngày 6 tháng tám cũng có lễ hội cảm tạ chó, gọi là ngày của Thánh Roch. Chuyện kể rằng, Thánh Roch bị thương trong rừng. Thật may, có một chú chó đã tìm thấy ngài, cho ngài ăn và trị vết thương. Từ đó, các nhà thờ vào ngày này đều làm lễ ban phước cho chó. Những chú cẩu sẽ được gia chủ dẫn tới giáo đường, nghe giảng đạo và chúc phúc. Nhà thờ cũng tổ chức nhiều hội vui cho chúng nhảy múa, vui đùa, ăn uống. Tương tự, tại Italia vào mồng 4 tháng 10 có Tiệc của thánh Francis, là vị thánh bảo hộ Italia và người có lòng từ mẫn với các con vật. Từ năm 1585, tòa thánh đã thực hiện lễ ban phước cho muôn loài. Vào Tiệc của thánh Francis, các vật nuôi như ngựa, chó, cừu, dê, lợn, bò đều được chúc phúc và ăn một bữa tiệc no nê với nhiều món quà hấp dẫn.

Đất nước Thái Lan, một quốc gia Đông Nam Á cũng có nhiều ngày hội động vật, mà tiêu biểu là lễ hội cho khỉ ăn vào ngày 25 tháng 11 ở tỉnh Lopburi. Đây là một vùng nhiều khỉ hoang. Có đến 3.000 con khỉ, ngày thường vẫn lang thang kiếm ăn. Chúng rất nghịch ngợm song vì người dân theo đạo Phật nên rất ít khi trách mắng, và còn tổ chức một ngày hội để giao lưu với con vật. Đến hội, mọi người sẽ tới các đền đài có lũ khỉ sống, trên tay cầm một số trái quả cho chúng. Ai cho chúng ăn, chúng sẽ tới bên người rất tự nhiên, bám đầu bám vai, đi theo người đó khắp nơi. Ngoài tung thức ăn, họ cũng dựng nhiều tháp quả, đồ uống giữa đồng cho khỉ " đánh chén”.

Bên cạnh chăm sóc động vật, mọi người cũng tương tác với thiên nhiên, cùng các con vật tham gia nhiều hoạt động vui nhộn. Vào tháng ba ở bờ biển Velas- Ấn Độ sẽ có ngày hội ngắm rùa nở bơi ra biển. Mỗi năm, loài rùa biển đều bơi vào bờ, với hàng trăm con và đẻ hàng nghìn quả trứng dưới cát. Và tháng ba là thời điểm trứng nở, thu hút rất nhiều du khách, nhất là các nhà sinh thái tới để giúp đỡ những chú rùa tí xíu ra biển. Được xem rùa nở đã là một kỳ tích hiếm thấy, lại có thể giúp chúng bơi ra biển ngay sau khi nở để tránh nguy hiểm trên cạn còn là một việc làm ý nghĩa hơn.

Vào tháng chín, tháng 10 ven biển Vina del Mar- Chile, lại có ngày hội ngắm chim do ở đây quy tụ đến hơn 230 loài chim, chiếm một nửa số chim toàn quốc. Nhằm ca ngợi thiên nhiên, các công viên, khu bảo tồn quanh bờ biển đều tổ chức các tua ngoạn điểu. Trong bốn ngày, mọi người sẽ được dẫn đi chiêm ngưỡng hàng trăm đàn chim, kể cả chim nuôi, nghe chúng hót- múa, tìm hiểu tập tính kiếm ăn- sinh sản, trong đó có loài kền kền Andea, quốc điểu Chile.

Cũng để giới thiệu vẻ đẹp của các loài bướm đặc hữu và dự đoán thời tiết tương lai, vào tuần thứ ba của tháng 10 tại North Carolina- Mỹ thường xuyên có ngày hội sâu lông. Thực ra là những cuộc thi cho những con sâu leo lên các sợi dây, và qua việc xem màu lông của những con về nhất tiên liệu thời tiết mùa đông. Người ta dùng đến 13 loại sâu mang 13 màu sắc khác nhau, tượng trưng cho 13 tuần đông. Ví dụ như màu nâu, vàng hoặc đỏ sẽ chỉ thời tiết ấm áp, nhiều nắng còn màu đen, xanh, xám sẽ cho trời lạnh, mưa tuyết. Hội thi diễn ra trong hai ngày từ thứ bảy tới chủ nhật. Vào thứ bảy, người chủ của những con sâu thắng cuộc sẽ được 1.000 đô la, còn vào chủ nhật thì được một nửa.

Từ năm 1928, ở nhiều nơi tại Mỹ như Indiana, Ohio, Washington, Maine, Missouri, Louisana, New York, vào tháng tám cũng có hội thi ếch, cho những chú ếch chạy nhảy để xem con vật nào bật xa nhất. Mỗi lần có đến 600 đến cả nghìn chú ếch dự thi, nhảy theo những tiếng reo hò của chủ. Người ta phải để chúng nhảy tự nhiên, chứ không được can thiệp như chọc thúc con vậy. Do vậy, trò chơi đầy tính gay cấn vì có con nhảy xa tới ba, bốn mét, song có con chỉ nằm ỳ, cho thấy sự phi thường lẫn ngộ nghĩnh của loài vật.

Hội đua lợn Hotsch thường diễn ra tại Kloster- Thụy Sĩ vào mồng một tháng giêng, tức Tết dương lịch. Tùy nơi người ta sẽ tổ chức hội trên tuyết hoặc đồng đất. Vào ba rưỡi chiều, lần lượt 10 chú lợn sẽ chạy đua với nhau, mà giải thưởng cho chúng là một nồi súp nóng hổi, thơm phức ở đích. Cũng hồi hộp như trên, có những chú lợn chạy rất nhanh, tiến thẳng phía trước, nhưng cũng có chú nhón chân bước chậm rãi hoặc tạt ngang tạt dọc, khiến khán giả cười bò. Trò chơi có tính vui vẻ và làm ấm bầu không khí se lạnh.

Cuối tháng sáu ở Đan Mạch, Thụy Điển và nhiều nước châu Âu, cũng như tháng 11 tại Canada và Mỹ đều có hội thi thỏ vượt rào, nhảy cao và xa. Mỗi con thỏ đều nổi tiếng về tài bật nhảy song tham gia hội thi còn là những con vật nhảy giỏi nhất. Chúng có thể nhảy cao đến một mét và nhảy xa tới ba mét, và sau mỗi cuộc thi đều được thưởng một củ cà rốt to sụ.

Vào tháng tám, tháng chín ở Tây Tạng, Pakistan, Kyrgistan, Mông Cổ và Trung Quốc thường thấy hội đua bò yak. Các làng trong vùng núi dùng bò yak vào thời điểm này đều tập trung lại thi cưỡi bò chạy đua. Trên quãng đường khoảng 2.000 mét, con vật nào chạy về đích sớm nhất sẽ chiến thắng. Có khoảng 150 con bò yak thi đấu/ vùng. Tùy nơi chúng được trang điểm khác nhau, song tựu chung là đầu buộc tua rua, sừng quấn lụa, tai đeo rua băng và đuôi túm khăn hình quạt ấn tượng. Người đua cũng mặc trang phục lôi cuốn. Cuộc đua vừa là ngày hội thể thao vừa để ca ngợi mùa vụ và khoe những chú bò mộng to khỏe.

Hội đua bò Bảy Núi vào tháng 10 tại vùng Bảy núi An Giang- Việt Nam cũng là một lễ hội nông nghiệp, ca ngợi con bò trong sản xuất nông nghiệp và giải trí. Nó diễn tả lại hoạt động cầy bừa trên ruộng nước của đồng bào Khmer Nam Bộ nhưng với tốc độ nhanh hơn và của một cuộc thi chạy. Thay vì chỉ dùng một con bò, và cưỡi như trên thì người Khmer An Giang thắng hai con bò cùng vào một cái bừa và đứng trên giàn giá lái nó về đích.

có thể nhảy cao đến một mét và nhảy xa tới ba mét, và sau mỗi cuộc thi đều được thưởng một củ cà rốt to sụ.

Vào tháng tám, tháng chín ở Tây Tạng, Pakistan, Kyrgistan, Mông Cổ và Trung Quốc thường thấy hội đua bò yak. Các làng trong vùng núi dùng bò yak vào thời điểm này đều tập trung lại thi cưỡi bò chạy đua. Trên quãng đường khoảng 2.000 mét, con vật nào chạy về đích sớm nhất sẽ chiến thắng. Có khoảng 150 con bò yak thi đấu/ vùng. Tùy nơi chúng được trang điểm khác nhau, song tựu chung là đầu buộc tua rua, sừng quấn lụa, tai đeo rua băng và đuôi túm khăn hình quạt ấn tượng. Người đua cũng mặc trang phục lôi cuốn. Cuộc đua vừa là ngày hội thể thao vừa để ca ngợi mùa vụ và khoe những chú bò mộng to khỏe.

Hội đua bò Bảy Núi vào tháng 10 tại vùng Bảy núi An Giang- Việt Nam cũng là một lễ hội nông nghiệp, ca ngợi con bò trong sản xuất nông nghiệp và giải trí. Nó diễn tả lại hoạt động cầy bừa trên ruộng nước của đồng bào Khmer Nam Bộ nhưng với tốc độ nhanh hơn và của một cuộc thi chạy. Thay vì chỉ dùng một con bò, và cưỡi như trên thì người Khmer An Giang thắng hai con bò cùng vào một cái bừa và đứng trên giàn giá lái nó về đích. Đường đua cũng chỉ dài một, hai trăm mét song vì ngập nước nên bắn tung tóe, được tin là một cách mang tới mùa màng bội thu cùng sự may mắn, thịnh vượng cho gia đình.

Từ xưa, voi đã là một biểu tượng của an lành, phú quý và thường xuất hiện trong nhiều lễ hội Đông Nam Á. Mà một lễ hội sôi động nhất là hội voi vào ngày thứ bảy lần ba trong tháng 11 tại tỉnh Surin- Thái, với sự góp mặt của hơn 300 chú voi diễu hành trên phố, đá bóng, chơi polo, vẽ tranh, nhảy múa… Lễ hội đã bắt đầu từ năm 1960 để ca ngợi tình bạn giữa người và voi, sự tinh khôn cùng những đặc tính thú vị của voi. Mỗi khi đàn voi đi qua, mọi người đều quây quanh và thưởng cho chúng chuối, mía và nhiều hoa quả ngọt lịm. Những ai mà cho voi ăn, mà được voi sờ sẽ gặp may mắn, thành công.

MC

TRÁI SIM CỦA QUẢNG TRỊ

Cây sim mọc đầy ở vùng đất Quảng Trị. Đến mùa, đi hái sim cũng là một thói quen, một thú vui của người dân ở vùng nắng gió này. Tôi vẫn nhớ như in, người dân Vĩnh Linh thường đố nhau như sau:

" Bằng đốt ngón tay

Dui day ra máu

Về tiết tháng sáu

Con cháu đi tìm

Là quả gì? ”

Và cũng không khó lắm để người ta trả lời đó là quả sim. Hồi trước sim có rất nhiều ở vùng đất Vĩnh Linh, Gio Linh, Hướng Hóa…Cứ đến mùa sim, từ tháng 6 đến tháng 10, trẻ con thì rủ nhau đi lên đồi hái sim ăn, còn người lớn thì đi hái sim về mang ra chợ bán. Người ta bán sim bằng lon, cứ mỗi lon bán mấy đồng bạc, ở trong hầu hết các chợ như chợ Do, Chợ Huyên… mang về một món tiền kha khá trang trải cho cuộc sống khó khăn hàng ngày. Trái sim thực sự đã đi vào thơ ca, đi vào những kỷ niệm khó quê của những người con xa quê.

Trái sim vừa là quả ăn chơi, vừa là quả cho thu nhập nhưng cũng là quả tốt cho sức khỏe. Một vài nơi, đến mùa sim, ngoài mang sin ra chợ bán, người ta còng làm rượu sin để uống. Rượu sim rất dễ làm . Cũng giống như làm rượu nho. Sau khi hái sim về, rửa sạch đất cát, để cho ráo nước, cắt bỏ phần đầu quả sim. Dùng bình thủy tinh, cho một lớp quả sim, rải lên một lớp đường cát hay đường phèn theo tỷ lệ 2 sim, 1 đường( ví dụ 2kg sim thì 1 kg đường), cứ thế, 1lớp sim, 1 lớp đường, cho đến khi đấy bình, đậy kín bình lại, để khoảng 3 tháng sau thì dùng được.

Cũng có thể làm rượu sim nhanh hơn, bằng cách dùng tay bóp nát quả sim, rồi giống như cách làm trên, cứ một lớp sim, một lớp đường, chất lên theo lớp cho đến khi đầy bình, để khoàng 2 tháng thì dung được.

Người ta cũng có thể ngâm trực tiếp quả sim với rượu trắng. Cứ 1 kg sim thì cho vào 1 lít rượu gạo, loại 40 độ, ngâm trong bình thủy tinh, sau 20 ngày thì dùng tốt. Có điều cần lưu ý, là khi ngâm với rượu, phải chọn loại rượu bảo đảm chất lượng. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, rượu sim ngâm với rượu không thể tốt bằng rượu sim ngâm với đường như cách làm trên.

Rượu sim, sau khi ngâm, có màu tím thẳm, vị ngọt, hơi chát, mùi rất đặc trưng, khó lẫn với các loại rượu khác. Rượu sim dùng để bồi bổ cơ thể, giúp ăn ngon miệng, cho người bị thiếu máu, giúp tiêu hóa tốt, tăng cường sinh lý cho quý ông. Mỗi bữa ăn, nên uống 1 đến 2 ly nhỏ là tốt nhất.

Cây sim tên khoa học là Rhodomyrtus tomentosa haycòn gọi là hồng sim, đào kim nương, cương nhẫm, dương lê, là một loài thực vật có hoa thuộc họ Myrtaceae, có nguồn gốc bản địa ở khu vực nam và đông nam Á, từ Án Độ về phía đông tới miền Nam Trung Quốc và ở một số nước khác. Rễ, lá và trái sim được dùng làm dược liệu trong y học cổ truyền Việt Nam và Trung Quốc, có tác dụng bổ huyết, an thai, bồi bổ cơ thể.

Rượu sim, một số nơi đã sản xuất ra bán cho người tiêu dùng, thu lợi nhuận tốt. Vùng Phú Quốc người ta có cả một khu vườn trồng sim, khu chế biến rượu sim, khu trưng bày bán rượu sim cho du khách tham quan, trở thành món đặc sản mỗi khi du khách đến đây. Hầu như du khách nào kể cả tôi, khi đến đây, đều rất thích chụp hình bên cạnh cây sim có hoa, như để nhớ về quê, nhớ về kỷ niệm.

Thiết nghĩ Quảng Trị quê mình, nhiều nơi có những đồi sim lớn như ở Vĩnh Linh, Gio Linh, Hướng Hóa…Chỉ riêng vùng Xã Hướng Sơn,Hướng Hóa,đã có diện tích sim tới hơn 12 ha, tập trung chủ yếu ở các thôn Nguồn Rào, Ra Ly và Pin. Đến mùa sim, người dân đi hái sim, bán cho thương lái, có thể thu về vài trăm nghìn đống. Nên chăng Quảng Trị cần nghiên cứu biến cây sim vốn có bao đời nay mà thiên nhiên bạn tặng,với mùa sim gần như đang tự phát, thành thứ đặc sản bán cho du khách thì hay biết mấy. Ở nước ta nhu cầu về sim, có thể cũng nhiều và cũng không có nhiều nơi có cây sim.

Còn sang năm, nếu ai ghé về quảng Trị vào mùa sim, nhớ ra chợ mua vài Lon Sim mà ăn nhé. Chắc chắn ngon. Quả Sim ở Quảng Trị, cũng giống như hạt tiêu ở Vĩnh Linh, có lẽ là ngon nhất nước.!

                                                                                           Đông Hương

TẾT ĐỂ….NHỚ NHÀ!---Tùy bút : Lê Đức Dục

I.

Ở cái thời điểm nhớ nhung đau đáu độ này, khi trời phương Nam se se lạnh sẽ thấy ai ai cũng chộn rộn chuyện tàu xe , giở tờ nhật trình nào cũng ầm ào chuyện dân kêu ca với tấm vé về thăm quê. Cho dù anh là ai, người đi bán dạo mấy món đồ như kiếng mát, bấm móng tay, hay anh là thợ giày da, cô công nhân dệt nhuộm, là công chức hay doanh nhân…Tất cả đều một chữ "về” thao thức, về cho kịp chiều 30 tết đi cúng ông bà, cho kịp sáng mùng một đi dâng hương nhà thờ nội ngoại. Về quê, về quê, về quê..như một tiếng gọi âm vang từ cội rễ thâm sâu.

Tết của người Việt thiêng liêng đã đành, và còn vì những bể dâu lịch sử của mảnh đất này mà cái Tết với người Quảng Trị càng thiêng liêng gấp bội. Chẳng quê xứ nào trên dãi đất chữ S này lại trần ai như quê Quảng Trị.

Binh lửa chiến tranh dằng dặc mấy chục năm đã khiến cư dân miền đất này có nhiều cuộc thiên di. Sau hiệp định Geneve 1954 chịu cảnh cắt chia lần thứ nhất, rồi Tết Mậu Thân 1968, mùa xuân 1972, mùa xuân 1975,…những cái Tết của quá khứ gần như gắn liền với tiếng súng bom, mùi thuốc đạn pháo (ca-nông) hòa trong mùi thuốc pháo đón xuân. Và sau đó là chia ly tao loạn. Có lẻ vì thế mà cảm thức Tết luôn là một nỗi khắc khoải đến vô cùng trong lòng con dân Quảng Trị. Nên chi với kẻ tha hương , Tết luôn là nỗi khát khao được trở về, không mang được tấm thân về bái lạy với quê nhà, gót chân mình không lùa vào đất cát đường xưa lối cũ, thì chốn ngàn trùng cách biệt vẫn vái vọng cố hương.Trong chừng mực nào đó, Tết với nhiều người trước hết rất giản đơn mà hun hút cõi lòng là để được về nhà , bởi khi đó, trong lòng kẻ tha hương quê nhà là thiên đường tuổi dại!

Nguyễn Thị Hoàng-một nhà văn quê Quảng Trị từng viết: Quê nhà : thiên đường của mỗi người và thiên đường quê nhà của riêng ta. Cái nỗi nhớ thiên đường quê nhà ấy luôn mịt mùng trôi trong miền hoài vọng, có khi hóa thành tâm bệnh. Bệnh nhớ nhà, bệnh hoài hương, bệnh "nostalgia”.

Cái từ "nostalgia”, vừa là nỗi hoài hương vừa là tên một căn bệnh chỉ một tình trạng bệnh lý liên quan đến sự khao khát những gì thuộc về quá khứ và thường là lý tưởng hóa những điều đó . Nó xuất phát từ tiếng Hy Lạp, nostoscó nghĩa là trở về quê hương, còn algoscó nghĩa là nỗi đau, niềm khao khát. (Bây giờ, nostagia thường được hiểu là một cảm xúc của con người tiếc nuối về những sự vật, sự việc thuộc về quá khứ, còn để chỉ dấu hiệu bệnh lý "nhớ nhà” , người ta thường dùng cụm từ homesickness(nhớ nhà). Kẻ tha hương thường bị nỗi nhớ ấy "hành hạ” mỗi khi trời se sắt lạnh, thoảng hơi xuân trong gió ,nghe mùa Tết chầm chậm đến. Khi xưa, Nguyễn Bính – một đời thơ tài hoa , những ngày lưu lạc phương Nam cũng ngoảnh về đất Bắc mà rưng rưng cố quận: "Quê nhà xa lắc xa lơ đó/Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay”.Bao nhiêu người giờ này đang ngoảnh nhìn mây trắng quê xưa?

Mà đâu cần chi xa hút chốn trời Âu bể Á mới nhớ, mới khắc khoải, như đã nói ở đầu bài viết, dân Quảng Trị vốn do hoàn cảnh lịch sử lưu lạc nhiều vào phương Nam, đến đâu cũng gặp họ, nỗi nhớ quê quán thường trực trong mỗi người, nhất là độ Tết như thế này. Ngày xưa sự cách trở muôn phần quan san bởi chiến tranh, bởi cuộc sống cơ cầu, bởi đò giang ngăn lối, nhưng nay chỉ một giờ bay với Vietnam Airline là từ Sài Gòn đã ra đến Huế, một giờ xe đò nữa thì chạm mặt quê hương, biết là như vậy nhưng mà sao đường về quê nhà cứ cảm giác cách ngăn một màn mưa sương hoang hoải. Nỗi nhớ ấy khiến ai cũng thành nhà thơ. Tôi chưa thấy có hội đồng hương nào mà cứ độ Tết về thế này lại ra những tập san như hội đồng hương Quảng Trị ở các tỉnh thành. Cũng không phải văn chương huê dạng chi nhiều, chỉ nhắc mãi nhắc hoài chuyện tiếng quê trọ trẹ, chuyện mái đình cây đa, chuyện mưa sa nước sỉa, ăn món này, nấu món kia,… năm nào cũng vậy, sách in ra rồi đọc, rồi ngâm ngợi, vậy mà nỗi nhớ ấy viết mãi năm này qua năm nọ không hết.

II.

Bởi nhớ quê nên chi đi tìm đồng cảm trong những bài thơ xưa cũ, những tấc lòng vang vọng qua ngàn năm, trãi qua hơn cả thiên niên kỷ rồi mà vẫn như vừa nói ra với mình trong chén rượu chiều ba mươi Tết!

Hạ Tri Chương, nhà thơ Trung Hoa xưa, đi làm quan hơn 50 năm trên kinh đô Trường An, ngày về quê hương đã cảm khái:

" Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi./ Hương âm vô cải, mấn mao tồi./ Nhi đồng tương kiến, bất tương thức, / Tiếu vấn: khách tòng hà xứ lai?”
dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già/ Giọng quê không đổi, tóc đà khác bao/ Trẻ con nhìn lạ không chào/ Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi? (Phạm Sĩ Vĩ dịch)
Nhưng đâu phải ai rời xa quê nhà rơm rạ cũng được làm quan như Hạ Tri Chương ? Nhưng hầu như ai cũng là "thiếu tiểu ly gia , lão đại hồi/ hương âm vô cải, mấn mao tồi” . Như người xưa "hương âm vô cải”-giọng quê không thay đổi, cái "hương âm” Quảng Trị trọ trẹ mô tê răng rứa vẫn rổn rảng cất lên giữa đất khách quê người . Bởi tiếng quê không thay nên tiếng lòng suốt đời thổn thức.Từ tạ quê nhà ra đi khi tóc đương xanh, tuổi đang xuân, thoáng chốc đã nghe mây trắng về ngang vầng trán.Kẻ công thành danh toại, người lận đận áo cơm, nhưng nỗi nhớ quê thì ai cũng như ai, khi heo may đã se sắt ngoài phố, thoảng trong gió mùi thơm của hương trầm vọng niềm cố xứ, ừ , rứa là thêm tuổi, thêm Tết, thêm nhớ nhung, cầm ly rượu Xuân mà nghe câu hát của Trịnh bay về từ hư không "Một lần chợt nghe quê quán tôi xưa-Giọng người gọi tôi nghe tiếng rất nhu mì.... Cái nỗi nhớ ấy luôn khản khắc đau đáu trĩu nặng lòng người khi đi qua miền đất này vùng quê nọ, gặp bóng xưa rêu phong trong ngôi miếu cổ, một dáng cổ thụ đầu thôn, nước giếng làng soi bóng… thì cái "giọng người gọi tôi nghe tiếng rất nhu mì” từ quê nhà cứ khắc khoải vang lên thầm thĩ trong mỗi buồng tim, rưng rức trong từng hơi thở để ký ức hoa râm lại lặn lội nhớ về dấu xưa Quảng Trị, miền đất nghèo dẫu qua bao bể dâu binh lửa vẫn man mác một quê quán thanh bình và nho nhã, thâm hậu mà huyền hoặc. Và lòng lại nhủ lòng rằng đã ta biền biệt bao lâu rồi, xa vắng bao lâu rồi những mùa "toóc rạ rơm khô”…

Ly hương là nỗi buồn tiền kiếp và máu thịt, nó đóng trong cung Thiên Di của lá số tử vi mà khi cất tiếng khóc chào đời, số mệnh đã khéo xếp đặt nên. Và cũng như Nguyễn Bính ngày xưa, những cư dân đất non Mai sông Hãn, vì những lý do thời cuộc, mưu sinh , đi theo cái cung Thiên Di trên lá số tử vi đời mình mà đành lưu lạc xứ người. Ly quê- cho dù quan san xa thẳm một đại dương hay chỉ cách vời một ngọn đèo Hải Vân mây trắng thì nỗi hoài hương trong mỗi con người khi xuân về Tết đến đâu có khác gì nhau? Hóa ra cái nỗi nhớ quê ở đâu cũng thế, bất kể Việt hay Tàu, Âu hay Á, cổ hay kim. Cái phút ngẫu cảm về quê để lại bài Đường thi tuyệt bút của Hạ Tri Chương của 1300 năm trước nào có khác gì cái cảm giác nhớ quê của những đồng hương Quảng Trị bây giờ đang lưu tán chân trời góc bể ?

Nhắc bài thơ của Hạ Tri Chương tưởng cũng nên nhắc thêm chuyện Trương Hàn, bởi Hạ Tri Chương về quê sau khi đã trả xong nợ quan trường, làm sao bằng Trương Hàn, đi làm quan xa, nhớ miền đất Giang Nam khi chớm thu về , nhớ rau thuần, cá lư đặc sản quê nhà đến mức nhớ chịu… không nỗi nên treo ấn từ quan, bỏ về quê. "Gió thu một tiếng bên tai-Thuần lư sực tỉnh nhớ mùi Giang Nam…”.(Thời buổi này không biết có vị quan nào dám bỏ hết danh vọng mà về quê vì nhớ không nhỉ?). Mà nỗi nhớ ấy đâu chỉ ở con người ?

Cổ thư còn ghi lại điển tích " Việt điểu sào nam chi, Hồ mã tê bắc phong”-con chim trĩ phương Nam của vua nước Việt dâng cho Chu Thành Vương về nuôi trong vườn ngự vẫn chọn cành cây phía Nam mà làm tổ, con ngựa của rợ Hồ (Mông Cổ) dâng cho vua Hán Vũ Đế khi nghe gió bấc thổi về thì ngoảnh mặt về phương Bắc hí vang-hóa ra niềm hoài hương nó kinh khủng đến vậy, là ngựa là chim còn vậy, huống nữa là những kiếp người luân lạc ?

Đôi khi ngẫm nghợi, thấy rằng nỗi niềm hoài hương cũng như một khái niệm toán học, nỗi nhớ nhà nhớ quê ấy luôn là một hằng số miên viễn và bình đẳng cho tất cả kiếp người tha hương. Cái nỗi nhớ ấy hẳn nó lớn lao lắm lắm mới bất chấp thời gian, bất kể không gian, mới đủ rộng dài cho nỗi nhớ dày lên đến vô biên và cũng đủ hẹp để nằm yên trong buồng tim bé mọn của kiếp người ngắn ngủi. Có thể gọi đó là một hằng sốcủa niềm hoài hương, của nỗi nhớ nhà đã có sẵn "từ ngày Mẹ cho mang nặng kiếp người” rồi từ đó ra đi tha xứ!

Hay như bản tình ca bất hủ Torna a Surriento(Back to Sorrento) của Ernesto de Curtis(Italya)(đã được Phạm Duy chuyển qua lời Việt với tựa "Trở về mái nhà xưa” ) :"Về đây khi mái tóc còn xanh xanh. / Về đây với mầu gió ngày lang thang / Về đây với xác hiu hắt lạnh lùng. /Ôi lãng du quay về điêu tàn”.. đã trở thành bất tử bởi nó chạm được vào nỗi hoài nhớ thẳm sâu ấy.
Những cuộc tìm về cố quận bao giờ cũng thế, cho dù anh có kiêu bạc xiết bao trên bước lãng du , anh có coi kiếp người như cánh chim bằng bạt gió thì quê nhà vẫn trĩu nặng với hoài ức, vướng víu bước chân anh.

Một kiếp đời ly quê như thế, vậy thì sẽ làm gì vào ngày cuối năm, khi nghe gió xuân len về giữa rét bấc còn hiu hắt, nhìn cành mai chúm chím nụ và mơ hồ trong tiếng gió xa có âm thanh rì rào của Hiền Lương,Thạch Hãn, Hiếu Giang vọng về qua ngàn trùng mây trắng đèo cao : "Thôi nhé đừng hoài âm xưa .Giọt mưa đã gieo trên thềm nhà .Người ngồi im bóng .Lắng nghe tháng ngày qua…”

Chắc chắn rồi, kẻ tha hương Tết không về được nhà hẳn sẽ rất buồn nhưng tôi e là vẫn còn may mắn.

Vâng, may cho những ai xa xứ còn có một quê nhà để nhớ về, bởi tôi có anh bạn làm thơ, quê gốc Bắc sống giữa Sài Gòn để rồi cứ những ngày cận kề Tết anh lại loay hoay tiển bạn bè về quê ăn Tết.Năm nào cũng thế, hết đưa bạn ra ga tàu, bến xe thì quay về ngồi với ly rượu trước hiên nhà mình mà thèm có một quê nhà đâu đâu để nhớ nhung chiều ba mươi Tết. Bạn tôi bảo, anh có quê hương mà thiếu quê nhà, không có thiên đường tuổi dại riêng mang nên câu thơ của anh viết chiều 30 Tết cứ rưng rức, nao lòng: "Ta quê hương mà thiếu một quê nhà/Chiều cuối năm nhìn những chuyến xe qua/Mấy mươi năm vẫn một chiều rất cũ/Vắng tự trong lòng vắng thổi ra…”(Đỗ Trung Quân)…

L.Đ.D

DANH SÁCH BAN LIÊN LẠC ĐỒNG HƯƠNG QUẢNG TRỊ

•Ông Đào Xuân Thống, Trưởng ban, cư ngụ tại: E4, chung cư BCA, Khu phố 4, Phường Bình An, Quận 2, TP. HồChí Minh, điện thoại: 0918264339

•Trần Đàm, Phó ban, cư ngụ tại: 87 Phạm Ngọc Thạch, Quận3, TP. Hồ Chí Minh, điện thoại:093837750

•Đào Trường San, Phó ban, địa chỉ: 64 Trần Hưng Đạo, P7Q5, TP. Hồ Chí Minh, điện thoại: 0903809212

•Ngô Hào, Thủ quỹ, địa chỉ: Số 4 đường 42, Phường 14, Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh, điện thoại: 0913753763

•Trần Ngọc Thanh, Thư ký, địa chỉ: 248 Lô I, CX Khu CNTB, Quận Tân Phú,TP. Hồ Chí Minh, điện thoại: 0933366085

•Hoàng Lan, Kế toán kiêm thư ký, địa chỉ: B1/06/04 CC Hoàng Anh Gia Lải, đường Nguyễn Hữu Thọ, Nhà Bè,TP. Hồ Chí Minh, điện thoại: 0983004923


Xem thêm,xin mời vào trang Web:thienphuoc.com


Lên đầu trang   Trở lại  
 
Tin tức
TRỒNG CAM TRÊN GÒ ĐỒI HẢI LĂNG CHO KẾT QUẢ TỐT - 24/10/2019
THÔNG BÁO VỀ VIỆC GỬI BÀI CHO ĐẶC SAN NHỊP HIỀN LƯƠNG 2020 - 22/10/2019
VINH MOC TUNEL - 21/10/2019
MÔ HÌNH NUÔI VỊT BIỂN Ở QUẢNG TRỊ - 16/10/2019
TRỒNG DƯA LƯỚI THEO CÔNG NGHỆ NHẬT BẢN - 15/10/2019
GƯƠNG NGƯỜI TỐT Ở QUẢNG TRỊ - 14/10/2019
BẮT THÊM MỘT VỤ MA TÚY - 10/10/2019
Quảng Trị: Hàng trăm người Lào được nhập quốc tịch Việt Nam - 08/10/2019
CẮT DỨT ĐƯỜNG DÂY VẬN CHUYỂN MA TÚY LỚN VÀO VIỆT NAM - 07/10/2019
CHẶN TÀU CÁ TRUNG QUỐC ĐÁNH BẮT CÁ PHI PHÁP - 06/10/2019
TRỒNG THỬ NGHIỆP SÂM NGỌC LINH - 05/10/2019
BẮT PHÁO LẬU Ở QUẢNG TRỊ - 05/10/2019
Khởi công dự án cao tốc đoạn Cam Lộ - La Sơn - 01/10/2019
LÚA MA HAY LÚA TRỜI - 29/09/2019
BÁNH ĐÚC RAU CÂU QUẢNG TRỊ - 29/09/2019
Trồng rau xứ lạnh trên đất Hướng Hóa có triển vọng tốt - 29/09/2019
PHÁ BOM MÌN Ở QUẢNG TRỊ - 27/09/2019
NHỊP HIỀN LƯƠNG 2019 - 27/09/2019
BẮT GIAM 3 ĐỐI TƯỢNG NGƯỜI TRUNG QUỐC - 22/09/2019
CÁCH PHÂN BIỆT GIỮA QUẢ ĐÀO VIỆT NAM VÀ ĐÀO TRUONG QUỐC - 21/09/2019
Hải Lăng: Cam K4 được mùa, được giá - 18/09/2019
RỪNG NGUYÊN SINH RÚ LỊNH - 03/09/2019
CẢNH GIÁC VỚI TỎI TRUNG QUỐC - 02/09/2019
THÁNH ĐỊA LA VANG- Điểm rất đáng đểtham quan - 02/09/2019
100% giáo viên đều viết chữa đẹp như tranh - 02/09/2019
UBND tỉnh Quảng Trị xem xét đề xuất dự án đầu tư về du lịch tại Khu du lịch Cửa Tùng - 30/08/2019
ĐẠI SỨ MỸ THĂM CẦU HIỀN LƯƠNG, THẮP NHANG TẠI NGHĨA TRANG TRƯỜNG SƠN - 29/08/2019
BA KỶ LỤC ĐƯỢC XÁC LẬP TẠI CHÙA CAM LỘ,QUẢNG TRỊ - 27/08/2019
CÁCH LUỘC THỊT NGON - 23/08/2019
MÓN CÁ DÉT QUẢNG TRỊ - 20/08/2019
Thu cả trăm triệu đồng nhờ trồng rau Liệt - 18/08/2019
HÀNG TRUNG QUỐC HÔ BIẾN THÀNH HÀNG CỦA ĐẢ LẠT - 17/08/2019
GIỚI THIỆU 2 CHẤT QUÝ HƠN VÀNG TRONG GẠO QUẢNG TRỊ - 03/08/2019
HANG ĐỘNG BRAY QUẢNG TRỊ - 22/07/2019
BÀI THƠ CHO SỨC KHỎE- Sưu tầm - 17/07/2019
TA NHỚ XỨ CÙA MÂY TRẮNG LẮM…” Lê Đức Dục - 17/07/2019
GHI Ở LÀNG CHÀI VỊNH MỐC - 03/07/2019
NHÀ MÁY ĐIỆN MẶT TRỜI Ở QUẢNG TRỊ - 03/07/2019
NĂM KHỈ NÓI CHUYỆN KHỈ - 02/07/2019
KHÁNH THÀNH NHÀ MÁY ĐIỆN NĂNG LƯỢNG MẶT TRỜI - 02/07/2019
NĂM KỶ HỢI, NÓI CHUYỆN HEO - 25/06/2019
MÓN TRỨNG CÁ CHUỒN - 24/06/2019
GIẤC MƠ PHỐ THỊ GIỮA TRÙNG DƯƠNG- Lê Đức Dục - 24/06/2019
NĂM GÀ NÓI CHUYỆN GÀ - 24/06/2019
Một số chính sách mới 2019 - 22/06/2019
ĐÔI ĐIỀU VỀ DI TÍCH HIỀN LƯƠNG - 13/03/2019
Trong một gia dình, cha và con đều không có bàn tay và bàn chân - 13/03/2019
Ủy ban tỉnh Quảng Trị họp bàn tổ chức Ngày Hội Non Sông - 10/03/2019
Đồng hương Quảng Trị tại thành phấ Hồ Chí Minh họp mắt đầu năm 2019 - 06/03/2019
MẸO LAU KÍCH MAU SẠCH - 05/03/2019
Trang 4/7: Trước  1, 2, 3, 4, 5, 6, 7  Sau
 
Tìm kiếm
Tin bài mới nhất
Liên kết website