Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 (tức ngày 9 tháng 9 năm Canh Thân) tại xã Cam An, huyện Cam lộ, tỉnh Quảng Trị.
Ông lớn lên và đi học ở Quy nhơn Bình Định, đỗ bằng Thành chung(THCS hay cấp II hiện nay) thì thôi học, đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem Quy nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ.
Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu Tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mạc Tử, Yến Lan, Quách Tấn, được người đương thời gọi là "Bàn thành tứ hữu" của Bình Định.
Năm 1939, ông ra học tại Hà Nội. Sau đó Chế Lan Viên vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học. Năm 1942, ông cho ra đời tập văn Vàng sao, tập thơ triết luận về đời với màu sắc siêu hình, huyền bí.
Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, rồi ra Huế tham gia Đoàn xây dựng cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh. Thời kỳ này, Chế Lan Viên viết bài và làm biên tập cho các báo Quyết Thắng, Cứu Quốc kháng chiến. Phong cách thơ của ông giai đoạn này cũng chuyển dần về trường phái hiện thực. Tháng 7 năm 1949, trong chiến dịch Tà Cơn,đường 9(Quảng Trị), Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học. Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác ở phòng văn nghệ, Ban tuyên huấn trung ương và đến cuối năm 1958 trở lại làm biên tập tuần báoVăn học(sau là báo Văn nghệ ). Từ năm 1963 ông là ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, ủy viên ban thư kí Hội nhà văn Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam dân chủ cộng hòa các khóa IV, V và VI, ủy viên Ban văn hóa - giáo dục của quốc hội.
Sau 1975, ông vào sống tại thành phố Hồ Chí Minh và mất ngày19 tháng 6 năm 1989 (tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ), thọ 69 tuổi.
Trong cuộc đời Chế Lan Viên đã sáng tác nhiều tác phẩm :
Thơ
- Điêu tàn(1937)
- Gửi các anh(1954)
- Ánh sáng và phù sa(1960)
- Hoa ngày thường-Chim báo bão(1967)
- Những bài thơ đánh giặc(1972)
- Đối thoại mới(1973)
- Ngày vĩ đại(1976)
- Hoa trước lăng Người(1976)
- Dải đất vùng trời(1976)
- Hái theo mùa(1977)
- Hoa trên đá(1984)
- Tuyển tập thơ Chế Lan Viên(tập I, 1985; tập II, 1990)
- Ta gửi cho mình(1986)
- Di cảo thơ I, II, III(1992, 1993, 1995)
- Tuyển tập thơ chọn lọc
Văn xuôi
- Vàng sao(1942)
- Thăm Trung Quốc(bút ký, 1963)
- Những ngày nổi giận(bút ký, 1966)
- Bác về quê ta(tạp văn, 1972)
- Giờ của đô thành(bút ký, 1977)
- Nàng tiên trên mặt đất(1985)
Tiểu luận phê bình
- Kinh nghiệm tổ chức sáng tác(1952)
- Nói chuyện thơ văn(1960)
- Vào nghề(1962)
- Phê bình văn học(1962)
- Suy nghĩ và bình luận(1971)
- Bay theo đường bay dân tộc đang bay(1976)
- Nghĩ cạnh dòng thơ(1981)
- Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân(1981)
- Ngoại vi thơ(1987)
- Nàng và tôi(1992)
Ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Xem thêm,xin mời vào trang Web:thienphuoc.com